Xem thêm tại diễn đàn hóa học
Showing posts with label Lớp 12. Show all posts
Showing posts with label Lớp 12. Show all posts
Saturday, July 21, 2012
Giải đề thi đại học môn Hóa học khối A 2012 – Vũ Khắc Ngọc
Thầy Vũ Khắc Ngọc – giáo viên giảng dạy khóa Luyện thi đại học môn Hóa học tại Hocmai.vn sẽ hướng dẫn các bạn học sinh giải chi tiết đề thi đại học môn Hóa học khối A 2012 trong video này
Thursday, July 19, 2012
Bí quyết để giỏi từ vựng tiếng Anh
Tiếng Anh có khoảng trên 100,000 từ vựng các loại. Vậy có bí quyết nào để giỏi từ vựng tiếng Anh mà không cần phải học và nhớ gần cả 100.000 từ?
Bí quyết đầu tiên là học những từ thông dụng nhất. Theo thông kê, thì chỉ cần bạn nắm được khoảng 3.000 từ tiếng Anh thông dụng nhất, bạn sẽ có thể hiểu được ít nhất 95% tiếng Anh trong hầu hết mọi hoàn cảnh thông thường.
So với 100.000 từ thì 3.000 từ là một con số quá nhỏ nhoi (chỉ bằng khoảng 1/33), nhưng chúng lại có thể giúp bạn hiểu được đến 95% nội dung trong hầu hết mọi hoàn cảnh thông thường. Vậy thì còn gì bằng đúng không nào?
Hãy bắt đầu học ngay từ bây giờ. Mỗi ngày chỉ cần học 5 từ, thì trong vòng 1 năm rưỡi bạn đã rất “siêu” tiếng Anh rồi. Nếu mỗi ngày bạn chịu khó học 10 từ thì chỉ trong vòng khoảng 10 tháng bạn đã thành công. Hãy cố gắng lên!
Bí quyết đầu tiên là học những từ thông dụng nhất. Theo thông kê, thì chỉ cần bạn nắm được khoảng 3.000 từ tiếng Anh thông dụng nhất, bạn sẽ có thể hiểu được ít nhất 95% tiếng Anh trong hầu hết mọi hoàn cảnh thông thường.
So với 100.000 từ thì 3.000 từ là một con số quá nhỏ nhoi (chỉ bằng khoảng 1/33), nhưng chúng lại có thể giúp bạn hiểu được đến 95% nội dung trong hầu hết mọi hoàn cảnh thông thường. Vậy thì còn gì bằng đúng không nào?
Hãy bắt đầu học ngay từ bây giờ. Mỗi ngày chỉ cần học 5 từ, thì trong vòng 1 năm rưỡi bạn đã rất “siêu” tiếng Anh rồi. Nếu mỗi ngày bạn chịu khó học 10 từ thì chỉ trong vòng khoảng 10 tháng bạn đã thành công. Hãy cố gắng lên!
Xem 1000 từ vựng tại đây http://kenhdaihoc.com/forum/threads/7121-Bi-quyet-de-gioi-tu-vung-tieng-Anh.kdh
Friday, July 6, 2012
Những nét khác thường trong ‘Một con người ra đời’ của Macxim Gorki
Những nét khác thường trong ‘Một con người ra đời’ của Macxim Gorki
(Bản dịch của Cao Xuân Hạo – Chương trình Văn học 12 PTTH)
Một bạn đọc hâm mộ hỏi Hêmiguê (Nhà văn Mỹ nổi tiếng 1899 – 1961) về cách rèn luyện tốt nhất để trở thành nhà văn đã nhận được một câu trả lời: “Một tuổi thơ không vui sướng!”. Câu trả lời này có thể đúng với nhiều người, trong đó có nhà văn Macxim Gorki (1899 – 1961), người có công đặt nền móng cho Văn học Xô viết và cũng là nhà văn lớn của thế giới ở thế kỷ XX.
Macxim Gorki có họ tên thật là Alêchxây Măcximôvich Pêscôp, mồ côi cha từ năm lên ba, mồ côi mẹ từ năm lên mười. Cậu bé Pêscôp phải lăn vào trường đời kiếm sống từ năm mẹ mất, đã nếm đủ cảnh đời trái ngang cay đắng gần mười lăm năm. Nói đến nhà Macxim Gorki là phải nhắc đến tư tưởng tin yêu, đề cao, sùng bái con người: Tất cả ở trong con người, tất cả vì con người!... Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao! (kịch Dưới đáy). Góp phần hình thành nên tư tưởng lớn lao này chắc chắn có những tháng ngày cậu bé Pêscôp “kiếm sống” thời thơ ấu đã chứng kiến, gặp gỡ và sống với biết bao con người, tuyệt vời cao thượng cũng có, “dưới đáy” của sự khốn nạn đê tiện cũng có.
Chúng tôi muốn bàn về Một con người ra đời được viết năm 1912 (năm nhà văn 44 tuổi), một thiên truyện là bài ca ca ngợi con người rất tiêu biểu cho tư tưởng vĩ đại và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Câu chuyện kể về một người mẹ, trên đường đi kiếm việc làm (trước đó đi đắp đường ở Xukhum nay đến Otsemtsiry tìm việc) nhờ có “tôi” giúp đỡ đã sinh hạ “mẹ tròn con vuông” ra một “công dân Oren”. Đó là câu chuyện về “một đứa trẻ ra đời” hay “Một hài nhi chào đời”. Nhưng đối với Macxim Gorki thì không phải vậy, mà phải là “Một con người ra đời”. Đối với nhà văn, hài nhi kia cũng là Một con người theo nghĩa cao cả đích thực của hai chữ CON NGƯỜI viết hoa. Tên truyện cũng phần nào hé mở tư tưởng tác phẩm. Các chi tiết trong câu chuyện đều là những sự khác thường nhưng đều nhằm mục đích nổi bật tư tưởng cao đẹp về con người.
Chỉ trong 26 dòng văn thơ đầu, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, đẹp “một cách lộng lẫy đến hoang đường” (cũng có nghĩa là đẹp một cách khác thường). Chúng tôi cho rằng những dòng văn này đã đạt đến độ mẫu mực cổ điển về phép tả cảnh. Trong văn có họa. Đó là màu sắc đi gam màu sáng tươi tắn: sáng long lanh, trắng xóa, vàng úa, vàng rực, nửa đỏ nửa vàng, xám lam, màu kục… Đó là hình ảnh của dòng sông tung bọt nước, của những tảng đá treo leo, của những cánh chim nhảy nhót, bay lượn, của những rặng cây, của những lá trúc đào ẩn hiện, của những đám mây trườn đi trên triền núi… Trong văn có nhạc. Đó là âm thanh rì rầm của tiếng sóng biển, tiếng xô nhau của những đám bọt nước trên dòng sông Kôđor. Đó là tiếng kêu của chim âu và chim cốc, tiếng gõ của chim gõ kiến… Trong cảnh có vị. Đó là hương vị ngây ngất của một thứ mật ong đặc biệt. Những con ong đã hút từ nhụy hoa nguyệt quế và nhụy hoa đỗ quyên. Theo lời kể chuyện, chất mật ong này “đã từng suýt gây tai họa cho cả một đoàn quân của Pômpê vĩ đại’ vì họ đã ăn thứ mật ong ấy để rồi say mềm ra… Và nhất là trong cảnh có hồn, có tình bởi nhà văn đã nhìn cảnh vật bằng cái nhìn của con người nhìn về con người. Thế cho nên cảnh vật thật sống động, những con chim âu, chim cốc kia cũng biết “mắc cỡ mà kêu lên những tiếng hờn dỗi”, “mấy con sơn tước láu lỉnh”, “bóng mây trườn đi”, “con ong nổi giận”, “những chiếc lá giống như những bàn tay”…
Dường như muốn để bức tranh thiên nhiên đẹp một cách sang trọng, quý phái hơn nhà văn đã không ngần ngại dùng những từ ước lệ cổ điển: “Về mùa thu, cảnh Kapkadơ giống như cảnh một thánh đường tráng lệ dựng nên do những bậc thánh hiền…” hay sử dụng những ẩn dụ cách điệu: “… một ngôi đền mênh mông bằng vàng, bằng ngọc bích, ngọc thạch…”, “treo lên sườn núi những tấm thảm đẹp nhất của người Tuyêcmen dệt bằng lụa tại Xamarkand…”. Nhưng theo tôi, độc đáo nhất là ở cách kiến tạo câu văn theo nguyên tắc “trùng phức hình ảnh”. Trong 26 dòng văn được chia làm 4 đoạn này chỉ có 8 câu văn, cá biệt có một câu hai chữ (Mùa thu) và một câu làm thành cả một đoạn văn (đoạn thứ tư với 138 chữ). Câu văn dài được chia làm nhiều mệnh đề có nhiều hình ảnh dồn dập xuất hiện, hình ảnh nọ chồng lên, nối tiếp, liên tưởng đến hình ảnh kia. Phải chăng nhờ thế mà nhà văn cứ viết như “vẽ” vậy: “Ở bờ bên kia những cành trăn đã trụi hết lá, rũ rượi như một tấm lưới rách, và tựa hồ mắc vào tấm lưới đó một con gõ kiến vùng núi nửa đỏ nửa vàng đang nhảy nhót rối rít, gõ cái mỏ đen vào vỏ thân cây lùa sâu bọ ra, trong khi mấy con sơn tước láu lỉnh và mấy con nhạ núi màu xám lam – những vị khách từ phương bắc xa xôi đến – tha hồ mổ ăn”.
Trong quan niệm của Gorki cái đẹp của thiên nhiên phải thuộc về con người: “Cao cả thay cái chức vị làm người trên trái đất – được thấy bao nhiêu điều kỳ diệu, trái tim được rung động một cách ngọt ngào mãnh liệt biết bao nhiêu trong khi nín lặng chiêm ngưỡng cái đẹp tuyệt vời!”. Đó cũng là hạnh phúc của con người, và đó cũng chính là thiên chức nghệ sĩ của con người. Ở đây có lẽ ta nên hiểu rộng hơn: con người cũng phải biết giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên để mà thực hiện thiên chức nghệ sĩ của mình. (Thế mà than ôi, ngày nay con người đang từ chối thiên chức vô cùng đẹp đẽ ấy bằng cách vô tình hay cố ý tiếp tay hoặc im lặng trước việc huỷ hoại tàn phá thiên nhiên!).
Đặt trong mối tương quan của cốt truyện ta thắy bức tranh thiên nhiên đẹp một cách “lộng lẫy”, “tráng lệ” kia đóng vai trò làm “nền”, vai trò “bối cảnh” để chuẩn bị cho “một con người ra đời”. Hiểu như vậy ta càng thấy trong tư tưởng của nhà văn, con người thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao!
Thông thường để có một truyện ngắn hay nhà văn phải tìm ra một tình huống hấp dẫn, mới lạ. Tình huống trong Một con người ra đời là một tình huống độc đáo đến mức khác thường: bà đỡ cho ca sinh nở trên đường là một chàng trai trẻ chưa biết tí gì “đến việc đàn bà”, và tất nhiên cũng chẳng có “phương tiện”, “dụng cụ” gì cả? Trước hết nói về người mẹ. Theo tôi, ở người mẹ này có ba điểm khác thường: dũng cảm khác thường, khoẻ mạnh khác thường và một tình yêu con khác thường. “Chị nông dân” ấy vừa có một đại họa: chồng chị vừa chết. Thế là chị đành phải đi cùng một người hàng xóm dến Otsemtsiry. Biết mình sắp “khai hoa” chị tự mình đi tụt lại để tránh phiền họ trong lúc “họ đang say”. Người Việt ta có câu: “Người chửa cửa mả” nghĩa là người chửa thì gần với cái chết. Thế mà chị sẵn sàng chịu đựng một mình trong hoàn cảnh mà cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào. Đó là sự dũng cảm khác thường. Đẻ xong, chị tự mình đi tắm nước biển rồi sẵn sàng tiếp tục cuộc hành trình đi tới cái vùng đất mà chính chị cũng chưa rõ tên (“tôi” phải nhắc chị: “… Otsemtsiry”). Chính “tôi” cũng phải thốt lên: “Thật khỏe kinh khủng!” (Chú ý cách miêu tả theo khuynh hướng ngợi ca một người mẹ vĩ đại của tác giả: Tôi giúp chị rạch ra cho thằng con đôi vú mà thiên nhiên đã chuẩn bị để nuôi đủ đến hai chục đứa bé…”). Còn tình yêu con khác thường của chị, chúng hãy ta cùng xem nhà văn miêu tả niềm hạnh phúc của người mẹ.
Có lẽ không cần phân tích hình ảnh người mẹ trong cơn đau đẻ vật vã được nhà văn miêu tả với bút pháp hiện thực theo nguyên tắc: ”giống như thật”. Miêu tả niềm hân hoan hạnh phúc của con người, có lẽ đó mới là mục đích nghệ thuật của tác giả. Lúc này ngòi bút của Macxim Gorki thoáng hoạt thật kỳ lạ. Văn học tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây cũng đều có chung một nét thi pháp miêu tả mà thi pháp cổ phương Đông đã khái quát là “vẽ giồng điểm mắt”. Chúng ta dễ thấy để miêu tả niềm hân hoan, tình yêu vô bờ và tâm hồn của người mẹ, nhà văn đã đặc tả nụ cười và đôi mắt. Trong cả câu truyện nụ cười của người mẹ được miêu tả 7 lần, trong đó nụ cười khi nhìn đứa con đã “buộc rốn” là nụ cười tuyệt vời nhất: Nụ cười của chị mỗi lúc một thêm rạng rỡ; nụ cười ấy đẹp đẽ, chói lọi đến nỗi tôi gần như lóa mắt. Lời văn kể sử dụng lối tăng cấp tính chất: một thêm rạng rỡ -> đẹp đẽ -> lóa mắt. Đó là sự ca ngợi người mẹ đến tột đỉnh: đây không đơn thuần là nụ cười của người mẹ mà đó là nụ cười của đấng tạo hóa vĩ đại (thế cho nên “tôi” mới có thể “gần như lóa mắt”).
Còn “đôi mắt” của người mẹ mới thật thiêng liêng, thánh thiện làm sao! Suốt thiên truyện đôi mắt ấy được miêu tả 20 lần (khi đau đẻ được miêu tả 05 lần, sau khi đẻ được miêu tả 15 lần). Đây là một ví dụ:
… tôi thấy rõ đôi mắt sâu thẳm của chị tươi rói lên một cách kỳ lạ, cháy bừng lên một ngọn lửa xanh biếc.
… chị khẽ kêu lên một tiếng, im bặt, rồi lại mở mắt ra, đôi mắt đẹp vô cùng, đôi mắt thần thánh của người sản phụ. Xanh biếc, đôi mắt ấy nhìn lên bầu trời xanh biếc, trong đôi mắt bừng lên và hoà tan một nụ cười hoan hỉ biết ơn…
… mắt như hai hồ nước xanh mênh mông…
… đôi mắt phát ra những luồng ánh sáng ấm áp chan chứa tình thương…
… đôi mắt ấy lại trong trẻo và sáng bừng lên với ngọn lửa biếc của tình thương không bao giờ cạn…
Chúng ta thấy luôn có “một ngọn lửa xanh biếc” trong đôi mắt người mẹ. “Xanh biếc” là màu sắc đặc trưng của mắt người dân Oren, còn ngọn lửa kia, đó là ngọn lửa của niềm hi vọng, của niềm “hoan hỉ biết ơn”, của niềm tin và đặc biệt là của tình thương. Thế cho nên “đôi mắt thần thánh” kia “chốc chốc lại liếc… nhìn thằng dân Oren mới tinh đang ngủ dưới bụi cây”.
Trong cuộc sinh nở khác thường ấy không thể không nhắc đến “đấng người đỏ hỏng: cũng thật khác thường kia. Vừa mới chào đời nó đã “Siết chặt nắm tay và cứ thế mà gào mãi, như thể thách ai đánh nhau: ya – a… ya – a”. Dường như nó đã “ý thức được sự làm chủ chính bản thân nó khi xưng “tôi”, “tao” (nhà văn chơi chữ, trong tiếng Nga “Ya” có nghĩa là “tôi, “tao”). Nó được tắm bằng nước biển và biển “vui vẻ” phả bọt lên người nó. Đúng là qua cách miêu tả này đã cho thấy “nó” không phải là một đứa trẻ mà là một “đấng người” thật đáng kính trọng “chưa chi đã bất mãn với cuộc đời” mà “hét tướng lên” và “cứ thế mà gào mãi, như thách thức ai đánh nhau”, khi hết “hung hăng” thì ngủ và gáy một cách “dõng dạc”.
Còn “tôi”, cũng thật khác thường. Với “tư cách” là một “bà đỡ” bất đắc dĩ mà “tôi” lại làm thật tốt một công việc hoàn toàn lạ lẫm. Đây không hề phải là vấn đề “tay nghề”, “cách thức” hay “thao tác” mà điều quyết định là ở tình thương con người thật lớn lao, cao cả, thiêng liêng! “Tôi” vượt qua sự ngượng ngiụ, sự xỉ vả và hành động phản ứng “đánh vào mặt, vào ngực tôi” của người sản phụ, để… đỡ đẻ. Đón một “đấng người” ra đời, “tôi” quỳ gối lên, nhìn nó mà cười lớn…”. Hành động “quỳ gối” này có gì đấy gần giống với tư tưởng của Lỗ Tấn: Trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ/ Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng. Nhưng hành động lấy răng mình để “cắt” rốn (“tôi” đành lấy răng cắn rốn) mới là hành động thể hiện rõ nhất, cao nhất tình yêu thương quý trọng con người, “tất cả vì con người”…
Một trong những biểu hiện của chủ nghĩa lãng mạn là sự khác thường. Ta có thể coi Một con người ra đời của Macxim Gorki là một câu chuyện đậm chất lãng mạn. Chất lãng mạn đã chấp thêm cánh cho hình tượng con người trong sáng tác của Gorki thêm bay cao bay xa trong bầu trời của tự do, của ước mơ, của cái đẹp, cái thiện. Thế cho nên tác phẩm thì khép lại về mặt câu chữ nhưng lại mở ra cuộc hành trình của một cuộc đời đi tìm cuộc sống mới.
NGUYỄN THANH HÀ
"Một con người ra đời” – câu chuyện gần gũi và tràn đầy tính nhân văn
"Một con người ra đời” – câu chuyện gần gũi và tràn đầy tính nhân văn
Tuổi thơ nhiều bất hạnh, đắng cay; từng chu du khắp nước Nga vừa đi vừa kiếm sống; trường đời khắc nghiệt, lao động vất vả, nghị lực phi thường và cả tình thương yêu bao la của bà ngoại đã hun đúc nên một Măcxim Gorki (1868 – 1936) - người đặt nền móng cho văn học Xô viết, “chim báo bão” của cách mạng Nga đầu thế kỷ XX và là một trong những nhà văn lớn của thế kỷ này.
Gorki là một trong những người đề xướng và cũng được tôn vinh là “bậc thầy” của Chủ nghĩa hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Nét đặc sắc trong sáng tác của Gorki là tình yêu nước Nga, yêu thiên nhiên Nga và đặc biệt là tình yêu con người. Tin yêu, thậm chí sùng bái con người, ông ca ngợi vẻ đẹp, tầm vóc lớn lao của con người và tạo nên những trang viết thấm đượm tinh thần nhân văn, gây xúc động lớn cho người đọc.Trong số đó không thể không kể tới truyện ngắn “Một con người ra đời” được viết vào năm 1912.
Cơ sở của truyện dựa trên sự việc có thật xảy ra với chính tác giả vào cuối mùa hè năm 1892 - một năm đói kém – khi ông đang làm việc tại công trường Kapkaz. Tác giả mô tả lại cảnh “vượt cạn” của một phụ nữ nông dân nhưng không theo cái nhìn củanhà y học mà tập trung làm nổi bật nỗi đau đớn vô cùng và niềm vui khôn tả của người mẹ khi sinh ra một con người.
Ngòi bút miêu tả tỉ mỉ, chi tiết đã “không bỏ sót một điều gì trong toàn bộ quá trình sinh nở của người mẹ: đau đẻ, trở dạ, cắt rốn, chờ nhau” (Nguyễn Hải Hà). Với mỗi chúng ta, với những người mẹ chuyện sinh nở có xa lạ gì đâu nhưng sao khi đọc những trang viết của Gorki ta chợt như thấy mình có thêm nhiều khám phá. Nỗi đau tột cùng, sự vật vã, quằn quại thể xác khi sinh con của người mẹ được ví với “miếng vỏ bạch dương hơ lửa”, được mô tả qua những “tiếng rên khò khè”, “tiếng rống”, “tiếng gầm gừ” như những con thú. “Khuôn mặt đỏ bầm, căng bự lên”, biến dạng “trông không còn ra mặt người nữa”, “đôi môi tím bầm mím chặt lại, bọt sùi hai bên mép”, đặc biệt là đôi mắt, “đôi mắt đã dại hẳn đi, chạy đầy những tia máu”, “bạc màu đi dưới ánh nắng” và “tuôn ra những giọt nước mắt của nỗi đau đớn vô cùng của người mẹ”, “toàn thân chị như vỡ ra, chia hẳn ra làm đôi”. Chi tiết hiện thực nhưng không hề thô ráp, càng không “xúc phạmtrắng trợn thị hiếuthẩm mĩ” bạn đọc như một nhà văn Nga đương thời chê trách. Phải chăng “dũng khí” của Gorki khi viết những dòng này đã được tiếp sức từ chính chàng trai trẻ trong câu chuyện 20 năm về trước. Chỉ nghe một tiếng rên khe khẽ anh đã thấy “xao động”, thân thiết, “ruột rà”. Mặc cho người đàn bà xua đuổi, chửi bới; vượt qua sự ngượng nghịu, luống cuống, anh “xông” vào đỡ đẻ chỉ vì “thương chị quá chừng”, cho dù hiểu biết củachàngtrai về “cái khoản này” có được là bao. Và khi đã bế trên tay một con người, mắt anh nhoà lệ, rồi nhìn nó mà cười lớn “Rất mừng được gặp chú bé”. Niềm hân hoan đến trào nước mắt của chàng trai khi chào đón một con người cũng là âm hưởng chủ đạo mà Măcxim Gorki muốn tấu lên trong “bản trường ca” về con người này : “Cao cả thay cái chức vị làm người trên trái đất”.
Mải mê ngắm chú bé đỏ hỏn mà chàng trai “quên khuấy đi những việc còn phải làm” đến mức người mẹ phải giục “Cắt đi...Lấy dao...mà cắt” nhưng nụ cười rạng rỡ, đôi mắt ánh lên niềm vui khôn tả xiết của người mẹ thì anh “thấy rất rõ”. Anh thấy “ngọn lửa xanh biếc” trong đôi mắt sâu thẳm, “đôi mắt thần thánh” của người sản phụ. Nụ cười đẹp đẽ, chói lọi của chị làm anh loá mắt. Có ý kiến cho rằng: nhà văn đã đem hết tình thương và vốn từ ngữ giàu có của mình để ca ngợi niềm vui sướnghạnh phúc của người mẹ trẻ lần đầu tiên sinh nở được một đứa con yêu quý. Niềm vui ấy không chỉ lây lan sang chàng trai khiến anh không dưới 7 lần phải nhắc đi nhắc lại vẻ đẹp của đôi mắt và nụ cười người sản phụ khi vừa trải qua một cuộc vượt cạn đầy gian khó và đã “mẹ tròn con vuông”. Niềm vui ấy còn lan toả vào cả thiên nhiên xung quanh: bầu trời xanh biếc, lá thu vàng rực, biển vỗ ì ầm, sóng lao xao, mặt trời rọi nắng chói lọi. Phải chăng thiên nhiên cũng mừng vui chào đón sự ra đời của đứa trẻ, chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao với người mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện một con người ra đời được đặt trên phông nền là bức tranh thiên nhiên Nga tráng lệ, kì vĩ.
Lòng trân trọng, tin yêu vô bờ bến của Gorki đối với con người là không thể đo đếm. Vì thế, ông đã nâng việc sinh nở tự nhiên, bình thường thành Sự sáng tạo thiêng liêng, người mẹ thành Tạo hoá và đứa bé sơ sinh – công trình của Tạo hóa - một con người. Ý tưởng ấy giúp ta gợi nhớ những lời lẽ, vần thơ cao đẹp mà nhân loại dành cho người mẹ: Người mẹ chính là Đấng sáng tạo ra cả anh hùng và nhà thơ, hay như “Không có mặt trời hoa hồng không nở. Không có phụ nữ không có tình yêu. Không có tình yêu không có hạnh phúc. Không có người mẹ không có anh hùng”(Klapin). Bernard Shaw cũng nói rằng: “Thế giới không có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ”. Tình yêu thương con bao la, dạt dào như sóng biển vùng Kapkaz của người mẹ trong câu chuyện phải chăng cũng là một kỳ quan như thế.
Người mẹ cũng như nhà văn đều băn khoăn về tương lai của đứa trẻ khi hiện tại là bao chông gai, là lang thang, đói khổ. Nhưng họ cùng có chung một mong ước về tương lai tốt đẹp cho chú bé, cho con người, mong ước con mình, mong ước con người được sống khoẻ khoắn, sung sướng trong tự do.
Phân tích truyện ngắn "Thuốc" của Lỗ Tấn
truyện ngắn "Thuốc" của Lỗ Tấn
1- Tác giả Lỗ Tấn.
- Lỗ Tấn ( 1881-1936 ) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Năm 13 tuổi, chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh mà chết vì không có thuốc, Lỗ Tấn ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc, để chữa bệnh cho những người nghèo như cha mình.
- Tuổi trẻ Lỗ Tấn nhiều lần đổi nghề để tìm con đường cống hiến cho dân tộc: nghề hàng hải, khai mỏ rồi chuyển sang nghề y. Đang học nghành y ở Nhật, một lần xem phim ông thấy những người Trung Quốc khoẻ mạnh hớn hở đi xem quân Nhật chém một người Trung Quốc chống Nhật. Ông giật mình nhận ra rằng: Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần. Và thế là ông chuyển sang làm văn nghệ để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân, lưu ý mọi người tìm cách chạy chữa. Con đường gian nan chọn nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn của lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại vừa nói lên tâm huyết của Lỗ Tấn với dân tộc.
- Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc đầu thế kỉ XX: “Trước Lỗ Tấn , chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn, có vô vàn Lỗ Tấn” (Quách Mạc Nhược ). Ông được tôn vinh là linh hồn dân tộc. Ông chuyên vạch trần những thói hư tật xấu của nhân dân để mọi người tìm cách chạy chữa, tự phấn đấu vươn lên, tự cường dân tộc. Tác phẩm chính của Lỗ Tấn là AQ chính truyện, Cố hương…
2- Tác phẩm:
a-Hoàn cảnh ra đời: Truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ Tứ ( Phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ của học sinh, sinh viên Bắc Kinh ) bùng nổ.
b-Tóm tắt tác phẩm:
Một đêm mùa thu gần về sáng, Lão Hoa đem số tiền vợ chồng dành dụm được ra pháp trường, gặp đao phủ mua một cái bánh tẩm máu tử tù về cho thằng Thuyên ,con trai lão ăn để chữa bệnh lao. (Mua thuốc, uống thuốc )(người kể chuyện là lão Hoa)
Trời sáng, quán trà của vợ chồng lão Hoa đông khách dần , mọi người bàn tán về cái chết của tử tù. Tử tù là Hạ Du, một người cách mạng bị xử chém vì chống Nhật. Mọi người cho Hạ Du là thằng điên, thằng khốn nạn và khen Cụ Ba là khôn vì đã tố cáo cháu mình để lấy tiền thưởng. Họ cũng cho vợ chồng lão Hoa là may vì tìm được máu để tẩm bánh bao làm thuốc (bàn về thuốc). (người kể chuyện biết tuốt)
Tiết thanh minh vào mùa xuân năm sau, bà Hoa đi thăm mộ con ( thằng Thuyên vẫn chết vì bệnh lao dù đã ăn bánh bao tẩm máu người). Bà gặp bà mẹ của Hạ Du. Mẹ Hạ Du lúc đầu còn ngại ngùng, nhưng sau đó bà Hoa đã bước qua ranh giới phân chia khu nghĩa địa dành cho dành cho người nghèo sang khu dành cho ngưòi chết chém để an ủi mẹ Hạ Du. Cả hai bà mẹ đều hết sức kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa (hậu quả của thuốc). (người kể chuyện là bà Hoa)
II – Phân tích :
1-Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người:
Nhan đề thiên truyện là Thuốc (nguyên văn là Dược). Thuốc ở đây chính là chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho thằng Thuyên ăn để chữa bệnh lao. Nhan đề này có nhiều nghĩa.
-Tầng nghĩa thứ nhất của Thuốc là nghĩa tường minh, chỉ phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người. Đây là một phương thuốc mê tín lạc hậu tương tự như hai vị thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh phù thủng là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết của ông cụ.
-Tầng nghĩa thứ hai của Thuốc là nghĩa hàm ẩn, đó là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần: căn bệnh gia trưởng, căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của nó. Rồi tất cả đám người trong quán trà cũng sai lầm như vậy. Chiếc bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành một thứ thuốc độc vì người ta quá tin vào nó mà không lo tìm một thứ thuốc khác. Người dân Trung Quốc phải tỉnh giấc, không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.
-Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc, của chiếc bánh bao tẩm máu người là phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung Quốc và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng Trung Quốc thời bấy giờ. Máu để tẩm chiếc bánh bao là dòng máu người chiến sĩ cánh mạng Hạ Du đã đổ xuống để giải phóng cho nhân dân. Thế mà nhân dân lại u mê cho anh là làm giặc, là thằng điên và mua máu anh để tẩm bánh bánh bao. Còn Hạ Du làm cách mạng cứu nước, cứu dân mà lại quá xa rời quần chúng để nhân dân không hiểu anh đã đành mà mẹ anh cũng không hiểu (đỏ mặt xấu hổ khi thăm mộ con gặp bà Hoa) còn chú anh thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng.
Tóm lại: Nhan đề truyện và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
2- Các nhân vật:
a-Hình ảnh đám đông quần chúng:
-Buổi sáng sớm, ở pháp trường, lão Hoa đi mua bánh bao tẩm máu tử tù về chữa bệnh cho con thì bị một đám đông xô đẩy nhau ào ào, chen bật lão suýt ngã. Đó là những người đi xem hành hình nhà cách mạng Hạ Du. Đám đông này khiến ta liên tưởng đến đám đông đi xem hành hình một người Trung Quốc chống Nhật khiến Lỗ Tấn đi đến quyết định: Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân.
-Khi trời sáng hẳn, ở quán trà đã đông khách của lão Hoa, Cậu Năm Gù, Cả Khang ,người râu hoa râm… cùng bàn tán về cái chết của Hạ Du với thái độ miệt thị. Họ cho anh là cái “thằng khốn nạn”, “hắn điên thật rồi”. Và họ cho rằng trong cái chết của Hạ Du có hai người gặp may. May nhất là Cụ Ba nhờ tố cáo cháu mình nên được thưởng một số tiền lớn mà gia đình khỏi bị liên luỵ, còn lão Hoa thì có máu Hạ Du để chấm bánh bao làm thuốc chữa bệnh cho thằng Thuyên.
Tóm lại, qua hai sự việc trên, và bằng ngôn ngữ của người kể chuyện, ta thấy đám đông quần chúng thật là mê muội. Sự hiểu biết và thái độ của họ về những vấn đề của đất nước, về bệnh tật, về cuộc đời còn quá hạn chế. Nói như Lỗ Tấn thì họ đang “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ. Phải làm thế nào đó để thức tỉnh họ. Ta cũng thấy nhân vật Hạ Du là một người yêu nước nhưng anh cũng thật cô đơn.
b-Nhân vật Hạ Du:
Nhân vật Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà được giới thiệu thông qua các nhân vật khác và qua thái độ của người kể chuyện.
Hạ Du là một người yêu nước, một nhà cách mạng tiên phong, dũng cảm xả thân vì nghĩa lớn.
Nhưng anh rất cô đơn, không ai hiểu anh kể cả mẹ anh. Anh đã đổ máu vì quần chúng thế mà họ lại lấy máu anh để tẩm bánh bao chữa bệnh lao.
Hạ Du chính là hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân Hợi, một cuộc cách mạng góp phần đánh đổ chế độ phong kiến Trung Quốc nhưng lại xa rời quần chúng nên thất bại. Qua hình tượng Hạ Du, Lỗ Tấn muốn bày tỏ lòng kính trọng với cuộc cách mạng này.
3-Cảnh hai bà mẹ đi thăm mộ con:
-Thời gian nghệ thuật của truyện tiến triển từ mùa thu Hạ Du bị hành hình đến mùa xuân trong tiết thanh minh năm sau lúc hai bà mẹ đi thăm mộ con. Cái chết của hai người con cũng như chiếc lá rời cành để tích nhựa cho một mùa xuân hi vọng. Thời gian nghệ thuật đã thể hiện mạch suy tư lạc quan của tác giả.
-Nghĩa địa của làng mộ dày khít như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ, có một con đường mòn ở giữa chia làm hai: Nghĩa địa người chết chém phía bên trái nghĩa địa người nghèo phía bên phải. Con đường mòn là biểu tượng cho một tập quán xấu đã trở thành thói quen. Hai bà mẹ đã bước qua con đường mòn để đến gặp nhau vì đồng cảm ở tình thương con sâu sắc.
-Cả hai bà mẹ cùng rất kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa: “hoa trắng hoa hồng nằm khoanh trên nấm mộ khum khum”. Bà mẹ Hạ Du cứ lẩm bẩm câu hỏi “Thế này là thế nào?”. Câu hỏi vừa hàm chứa sự sửng sốt, vừa ẩn giấu niềm vui vì có người đã hiểu con mình. Đồng thời đã là câu hỏi thì đòi hỏi có câu trả lời. Việc làm của Hạ Du đã khiến mọi người phải suy nghĩ một cách nghiêm túc. Với vòng hoa, Lỗ Tấn đã bày tỏ sự trân trọng và tiếc thương đối với người chiến sĩ cách mạng tiên phong.
2- Đặc sắc nghệ thuật:
-Truyện có lối viết cô đọng, súc tích, giàu hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng (chiếc bánh bao tẩm máu, vòng hoa, con đường mòn…)
-Cách xây dựng nhân vật cũng rất đặc biệt: không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà đặt ở tuyến ngầm phía sau nhân vật đám đông để khắc hoạ chủ đề thức tỉnh quần chúng của truyện.
-Cách kể chuyện theo ngôi thứ ba truyền thống nhưng nhiều đoạn đã chuyển điểm nhìn trần thuật sang nhân vật làm cho truyện sinh động và giàu chất trữ tình hơn.
ST
Tìm hiểu đoạn trích tác phẩm "Ông già và biển cả" của nhà văn Hê-minh-uê
Tìm hiểu đoạn trích tác phẩm "Ông già và biển cả" của nhà văn Hê-minh-uê
1.Tiểu sử tác giả:
Ơ-nixt Hê-minh-uê (1899- 1961): sinh trưởng trong gia đình khá giả tại một thành phố nhỏ ngoại vi Chi cagô nước Mỹ.
Ông yêu thích thiên nhiên hoang dại: thuở nhỏ thường theo cha tới vùng núi rừng, thích phiêu lưu mạo hiểm.
Từng nhập ngũ trong đại chiến I, đại chiến II.
18 tuổi bước vào nghề phóng viên, từng có mặt ở chiến trường Ý, Tây Ban Nha, Pháp, làm phóng viên mặt trận, dựng phim, viết kịch.
Ông chủ yếu sống ở Cu-ba, quen nếp sống giản dị của người dân chất phác.
Mất năm 1961 tại đây.
=> Nhà văn Mĩ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây và góp phần đổi mới lối viết truyện, tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới.
2.Sự nghiệp sáng tác:
Tác phẩm chính:
+ Tiểu thuyết nổi tiếng của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940). Ông già và biển cả (1952)
+ Truyện ngắn của Hê-minh-uê được đánh giá là những tác phẩm mang phong vị độc đáo hiếm thấy. Mục đích của nhà văn là "Viết một áng văn xuôi đơn giả và trung thực về con người".
+ Ông là người đề xướng nguyên lý “tảng băng trôi” (bảy phần chìm, một phần nổi) trong tác phẩm văn học: nhà văn không công khai phát ngôn ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có sức gợi để người đọc rút ra phần ẩn ý. Một trong những biểu hiện của nguyên lý trên là độc thoại nội tâm, dùng ẩn dụ, biểu tượng...
+ Hê-minh-uê được tặng Giải Pu-lit-dơ (1953)-giải thưởng văn chương cao nhất của Hoa Kì và Giải thươngtr Nô-ben về văn học (1954)
3.Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời và tóm tắt tác phẩm “Ông già và biển cả”
Năm 1952, sau gần 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê cho ra đời tác phẩm “ Ông già và biển cả”. Bối cảnh của tác phẩm là ngôi làng chài yên ả bên cảng La-ha-ba-na. Phu-en-téc, một thuỷ thủ trên con tàu của ông, được xem là nguyên mẫu của Xan-ti-a-gô. Trước khi được in thành sách, truyện đã được đăng trên tạp chí Đời sống.
+ Tác phẩm gây tiếng vang lớn và hai năm sau Hê-minh-uê được trao giải Nô-ben.
Tóm tắt tác phẩm :
Chuyện kể về ông lão đánh cá vùng nhiệt lưu tên là Xan-ti-a-gô, tám mươi bốn ngày liền không kiếm được con cá nào. Thế rồi lão một mình ra khơi và một con cá kiếm lớn mắc mồi. Sau cuộc vật lộn ba ngày hai đêm cực kỳ căng thẳng và nguy hiểm, lão bị nó quẫy mạnh ngã vập cả mặt, máu chảy đầy cả má, hai bàn tay bị dây câu cứa nát ứa máu, lão cũng giết được con các kiếm. Nhưng lúc quay vào bờ, từng đàn các mập hung dữ theo rỉa thịt con cá. Lão phải đơn độc chiến đẫu đến kiệt sức với lũ cá mập. Tuy vậy, lão vẫn nghĩ “không một ai cô đơn nơi biển cả”. Khi vào đến bờ, con cá kiếm “dài hơn chiếc thuyền có tới sáu bảy tấc” chỉ còn trơ bộ xương. Ông rã rời trở về lều, nằm trên giường ông nghĩ: “chẳng là gì cả, ta đã đi quá xa”, trong giấc ngủ lại “mơ về những con sư tử”.
4. Chủ đề truyện
Thông qua hình ảnh ông lão Xan-ti-a-gô quật cường, người chiến thắng con cá kiếm bằng kĩ năng nghề nghiệp điêu luyện, Hê-minh-uê gửi gắm một thông điệp: trong bất cứ hoàn cảnh nào “con người có thể bị huỷ diệt nhưng không hề bị đánh bại”.
5.Xuất xứ- vị trí đoạn trích SGK :
+ Đoạn trích nằm ở cuối truyện.
+ Đoạn trích kể về việc ông lão Xan-ti-a-gô rượt đuổi và khuất phục được con cá kiếm
+ Đoạn văn tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của Hê-minh-uê: luôn đặt con người đơn độc trước thử thách. Con người phải vượt qua thử thách vượt qua giới hạn của chính mình để luôn vươn tới đạt được mước mơ khát vọng của mình. Hai hình tượng ông lão và con cá kiếm đều mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm. Đoạn văn tiêu biểu cho nguyên lý “Tảng băng trôi “ của Hê-minh-uê.
6.Ý nghĩa biểu tượng trong đoạn trích
+ Ông lão và con cá kiếm. Hai hình tượng mang một vẻ đẹp song song tương đồng trong một tình huống căng thẳng đối lập.
+ Ông lão tượng trưng cho vẻ đẹp của con người trong việc theo đuổi ước mơ giản dị nhưng rất to lớn của đời mình.
+ Con cá kiếm là đại diện cho tính chất kiêu hùng vĩ đại của tự nhiên.
+ Trong mối quan hệ phức tạp của thiên nhiên với con người không phải lúc nào thiên nhiên cũng là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ. Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ vừa bình thường giản dị nhưng đồng thời cũng rất khác thường, cao cả mà con người ít nhất từng theo đuổi một lần trong
( Sưu tầm)
Mac Tuên và những cuộc phiêu lưu của TOYƠ
Tác giả
Mac Tuên (1835 – 1910) là bút danh của S.L Clemơnx. Tuổi thơ gắn liền với dòng sông Mixixipi. 12 tuổi bước vào cuộc đời phiêu bạt kiếm sống: làm thủy thủ, đi tìm vàng, làm phóng viên, viết văn, đi nhiều nơi ở châu Mĩ La tinh và sang cả châu Âu.
Sử dụng ngôn ngữ dân gian và chất hài hước đặc biệt Mĩ với cảnh sắc miền Tây là nét đặc sắc nghệ thuật của Mac Tuên. Tác phẩm nổi tiếng nhất: Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ (1876) và Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin (1884).
“Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” (1876) và “Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin” (1884) là 2 tác phẩm đặc sắc, độc đáo của nhà văn Mác Tuên (1835 – 1910). Màu sắc dân dã bình dị trong ngôn ngữ, chất hài hước đặc biệt Mĩ, “nhân vật truyền thống của miền Tây” đã tạo nên tính hấp dẫn và vẻ đẹp văn chương của Mac Tuên. Tinh thần phiêu lưu mạo hiểm, thái độ chống chế độ phân biệt chủng tộc, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và không khí kì ảo của miền Tây là những nét nổi bật tính chất Mĩ trong các tiểu thuyết của nhà văn danh tiếng này.
Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ, của Hâc Fin như đã làm sống lại những năm tháng lưu lạc, phiêu bạt của Mac Tuên bên dòng sông Mixixipi hơn 150 năm về trước. Tác phẩm “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” gồm có 35 chương và một lời bạt. “Mải mê chinh chiến và yêu đương” là chương thứ 3 của truyện. Trong chương này, tác giả kể lại cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ: phiêu lưu đánh trận giả và phiêu lưu trong tình yêu với người đẹp của thị trấn Xên Pitơxbơ. Bằng một giọng kể hóm hỉnh, vừa cảm thông vừa giễu cợt, Mac Tuên đã đưa độc giả trở về sống với thế giới tuổi thơ nhiều mộng tưởng và thích phiêu lưu của thiếu niên miền Tây nước Mĩ giữa thế kỷ thứ 19.
Tom Xoyơ là một đứa trẻ hiếu động, tinh nghịch, thích phiêu lưu, ở với bà dì tuy thương cháu nhưng rất khó tính. Bạn của Tom là những đứa trẻ rất ham chơi. Sáng nay, Tom đã lập mưu trốn được dì Poly để đi “chinh chiến”. Chú giả vờ đi vòng khu nhà mình rồi rẽ quặt vào một con đường nhỏ lầy lội phía sau chuồng bò của dì Poly. Sổ lồng! Chú chẳng còn sợ “bị bắt” và bị “trừng phạt” nữa, chú oai vệ đi về bãi chiến trường “khu đất rộng trong làng”. Chiến binh dưới quyền đang chờ vị tướng chỉ huy tới. Hai đại đội “chiến binh”, một do Tom chỉ huy, một do Jô Harpơ cầm đầu sẽ giao chiến. Hai vị đại tướng cầm quân và chỉ huy trận đánh như trong sử sách. Cuộc ác chiến kéo dài. Quân của Tom đại thắng. Khi hai đội quân xếp hàng rời trận địa, thì Tom trở về nhà một mình. Trận đánh giả của lũ trẻ cn thị trấn Xên Pitơxbơ diễn ra như thật. Hàng loạt từ ngữ nhà binh được tác giả đưa vào vừa gợi tả được không khí chiến trận, vừa làm nổi bật được chất phiêu lưu mải mê chinh chiến của Tom và lũ bạn. Nào là “chiến binh, chỉ huy, đại tướng, tác chiến, sĩ quan tùy tùng”. Nào là “ác chiến, đại thắng, tử trận, trao đổi tù binh, điều khoản, tác chiến”, v.v… Tom xuất hiện trên chiến trường rất oai vệ: ngồi trên mô đất cao chỉ huy, thông qua sĩ quan tùy tùng điều khiển lũ tiểu yêu xung trận. Khi trận đánh kết thúc, là kẻ chiến thắng, Tom trở về nhà một mình. Tất cả đều thể hiện phong độ cầm quân của một đại tướng, một vị anh hùng có tài thao lược và dạn dày chiến trận!
Trận đánh giả mà tả như thật, rất sống động, đã làm nổi bật “vai trò” của Tom trong chúng bạn, là đứa “cầm đầu” lũ tiểu yêu trong làng, nô đùa và nghịch như giặc! Là một đại tướng cầm quân, là kẻ chiến thắng, Tom được miêu tả bằng những nét sắc sảo, hiếu động, thích phiêu lưu, chú luôn luôn muốn “tháo cũi sổ lồng” ra khỏi khuôn khổ chật hẹp, tù túng của gia đình và “Trường học Chủ nhật” thị trấn Pitơxbơ.
Vị đại tướng rời trận địa trong ánh hào quang chiến thắng lại lao vào một cuộc phiêu lưu mới, cuộc phiêu lưu tình yêu. Xưa kia hiệp sĩ Đôn Kihôtê chả là đã có tình nhân xinh đẹp – công nương Đuyn Xinêa đó sao? Là một anh hùng hảo hán, Tom có kém ai, chú cũng có cô bé Amy Lôrenxơ một tình nhân “đắm đuối mê say” mà chú tự hào cho “mối tình của mình như một cái gì thiêng liêng ghê gớm”. Phải mất mấy tháng ròng để chinh phục cô nàng. Hạnh phúc chỉ có “vẻn vẹn 7 ngày ngắn ngủi”, giờ đây đó chỉ là chút tình vụn thoảng qua, và hình ảnh Lôxenxơ đã rời khỏi trái tim chú như người khách lạ sau khi tình cờ ghé thăm. Vừa ra khỏi bãi chiến trường, Tom thoáng gặp cô bé Bécky - tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng - vị anh hùng vừa đại thắng chưa bắn một phát súng nào đã ngã gục. Chú bé miền Tây này cảm thấy mình đã lớn, cũng muốn sống và hành động theo các anh hùng hảo hán, các trang hiệp sĩ trong các sách phiêu lưu mà chú đã ngốn qua. Tom “mê tít, lấm lét nhìn nàng tiên mới giáng trần kia”. Phải chiếm bằng được trái tim người đẹp. Phải trổ tài để cho cô nàng “mắt xanh biếc” có “bộ tóc vàng tết thành đôi bím dài”, mặc áo trắng mùa hè và chiếc quần thêu kia “phải khâm phục”. Giọng văn càng trở nên hóm hỉnh, khi tác giả nói về hình ảnh Tom đang nhào lộn khoe tài. Con gà trống thì cất tiếng gáy, khoe cái mào đỏ tía với ả mái tơ. Con công trống thì vừa múa vừa xoè bộ lông sặc sỡ trước con công mái đang ngẩn ngơ “tố hộ”. Còn Tom cũng vậy, “ra sức trổ tài bằng đủ trò trẻ con nực cười” để chinh phục nàng “mắt xanh biếc”. Lúc thì chú ta biểu diễn “một ngón nhào lộn nguy hiểm”, lúc thì chú ta “liếc mắt” nhìn theo cô bé. Giữa lúc “cái trò điên rồ lố lăng đó” đang diễn ra thì nàng tiên đi vào trong nhà. “Tom bước tới ngả người vào hàng rào, buồn rầu”. Lại “hy vọng” khi thấy cô bé nán lại chốc lát. Chú “thở dài đánh sượt một cái” khi người đẹp đặt chân lên ngưỡng cửa. Và rồi “nét mặt chú bỗng tươi hẳn lên” khi chú ta nhìn thấy “cô bé vứt qua hàng rào một bông hoa păng xê”.
Nhà văn đã dành cho bạn đọc bao thú vị để mỉm cười khi ngắm nhìn chú Tom làm trò lố lăng để chinh phục mĩ nhân. Người đẹp tặng hoa vị đại tướng sao lại “vứt qua hàng rào”, thật chẳng nhã một tí nào! Thế nhưng, Tom nhặt tặng phẩm ấy rất phong tình, độc đáo. Chú chạy vòng quanh đến cách bông hoa độ vài bước thì dừng lại. Chưa nhặt tặng phẩm vội, chú nhặt một cọng rơm và làm xiếc “ngửa mặt lên trời, giữ cho cọng rơm được thăng bằng, lắc người nhích dần đến hoa păngxê. Rồi chú đè bàn chân đi đất của mình lên bông hoa, dùng ngón chân khéo léo quặp lấy vật báu kia rồi cứ thế nhảy lò cò đi thẳng”. Ai mà được mục kích cảnh chú tom nhặt hoa của ngưới đẹp chắc chắn phải ôm bụng phì cười. Cũng nên nghĩ tới đôi chân trần của chú ta vừa mới đi tắt qua con đường nhỏ sau chuồng bò dì Poly. Chẳng sạch sẽ một tí nào thế mà giờ đây chú dùng những ngón chân ấy để “nâng niu” tặng phẩm của người đẹp! Hài hước hơn nữa, chú cũng học đòi người lớn, làm theo các hiệp sĩ xa xưa, chú “nhét bông hoa vào bên trong áo, gần ngay trái tim”. Thật hóm hỉnh khi tác giả hạ một câu: “… gần ngay trái tim – hay gần dạ dày chưa biết chừng vì chú không hiểu biết lắm về các bộ phận trong cơ thể con người, và được cái cũng chẳng lấy gì là khó tính”. Đứa cháu của dì Poly đến “Trường Chủ nhật” chỉ chơi, làm đầu trò cho lũ bạn, nào có để tâm mấy đến chuyện học hành. Chú chỉ lo mải mê chinh chiến. Một tá bi, một thằng lính chì, hai con nòng nọc, một khẩu đại bác bằng lõi chì, vân vân, đấy là gia tài, là thế giới mê say của Tom, vì thế, chú nào có biết tim ở đâu, dạ dày con người ở đâu! Rắc rối quá! Vả lại biết để làm gì? Nó chẳng giúp ích gì cho chú trong các cuộc mải mê chinh chiến và yêu đương này.
Người đọc mỉm cười tự hỏi: Cô bé Bécky đã khâm phục và “phải lòng” Tom nên đã tặng hoa? Hay là thương hại, chế giễu vị đại tướng đa tình đi chân đất? Cuộc tình nào mà chẳng có ẩn số? Trong cái dư vị ngọt ngào mà đóa hoa păng xê của người đẹp ban tặng Tom đã quay trở lại hàng rào tiếp tục “trổ tài” cho đến sẩm tối. Thật buồn cười vì cô bé chẳng ló mặt ra một lần nào nữa nhưng Tom cứ đinh ninh là người đẹp đứng nấp sau một cửa sổ nào đó nhìn ra… Đây là “mối tình thứ 2” của chú sao chú khờ khạo và ngờ nghệch thế! Chú bé thị trấn Xên Pitơxbơ đang tìm hiểu, đang học đòi những thiên diễm tình của các hiệp sĩ – công nương mà chú đọc được trong sách. Chú đã về nhà “trong đầu óc đáng thương tràn đầy ảo ảnh” và cả buổi tối ấy chú “vui như sáo” đã làm cho dì Poly phải ngạc nhiên.
Cái tài của Mac Tuên là đã diễn tả rất hay những trò chơi phiêu lưu của trẻ con Bắc Mĩ, đã vẽ rất thần tình sự vụng dại, khờ khạo của một đứa trẻ miền Tây cảm thấy mình đã lớn, tập là người lớn, nhưng vẫn chưa thoát “lốt” trẻ con, dấn thân vào các cuộc phiêu lưu tình ái. Trước cái vụng dại, khờ khạo, hồn nhiên của Tom, nhà văn độ lượng mỉm cười sống lại tuổi thơ trong sáng và sôi nổi của mình bên dòng sông Mixixipi thuở nào. Ta cảm thấy ông đang mỉm cười, nheo mắt nhìn chú Tom nhào lộn, làm trò và nhặt hoa păngxê của người đẹp vứt qua hàng rào! Với tấm lòng nhân hậu bao dung, với giọng văn kể chuyện hài hước, ông đã đem đến cho chúng ta những chuyện vui nực cười của trẻ con miền Tây nước Mĩ.
Nền văn học Mĩ, con người và đất nước Mĩ còn xa lạ và mới mẻ đối với số đông trong chúng ta. Những Tom Xoyơ, Hâc Fin và bạn bè của họ, những trò chơi, những cảnh sắc miền Tây và dòng sông Mixixipi còn rất ngỡ ngàng đối với chúng ta. Chỉ có điều, đọc “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” ta cảm phục Mac Tuên là một nhà văn có biệt tài, rất yêu trẻ con và kể chuyện rất hóm hỉnh về thế giới trẻ con./.
Bậc thầy của văn học trào phúng: Mac Tuên.
Chúng ta đã làm quen với Mac Tuên và cuộc sống phiêu lưu sông nước thời niên thiếu của ông bên dòng Mixixipi. Mac Tuên còn là bậc thầy của văn học trào phúng Mỹ và thế giới, đặc biệt với cuốn tiểu thuyết giang hồ “Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin”.
Nhà văn Mỹ lỗi lạc Hêminguây đã đánh giá tác phẩm ấy như sau: “Tất cả văn học Mĩ hiện đại đều xuất phát từ cuốn sách của Mac Tuên tên là “Hâc Fin”. Đó là tác phẩm hay nhất của chúng ta. Tất cả những gì trước tác ở Mỹ đều từ đó mà ra. Trước đó không có gì. Từ sau đó, không có gì cho đến nay hay bằng”
Cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1884 làm sống lại thời Mỹ còn là đất thuộc địa của Anh, chưa độc lập. Tác giả chọn khung cảnh lưu vực hai con sông nhánh Missiri và Ôhaiô với cuộc sống bạo lực của dân tứ chiếng trong các phố xá tồi tàn mới xuất hiện. Câu chuyện kể về chú bé Hâc Fin tiêu biểu cho thiếu niên thời ấy. Bố cậu là một người thiếu nhân phẩm, dân rượu chè. Chú bị bỏ rơi, tuy được một số người tốt bụng nuôi dạy. Chú cùng bạn Tom Xoyơ tìm ra của cải do bọn cướp cất giấu. Bố đánh hơi biết, bắt chú đến ở một lều hoang bên sông để tính đường nã của. Hâc trốn được lên một đảo hoang giữa sông, gặp Gim, một thanh niên nô lệ da đen cũng đương đi trốn. Câu chuyện của họ trôi theo dòng sông, trên một cái mảng, với những cuộc đột nhập vào những khu dân cư hai bên bờ. Áng văn cổ điển Mỹ này miêu tả các mùi vị, tiếng động, các thổ ngữ và nhịp sống trên sông. Những cuộc gặp gỡ của Hâc và Gim với những diễn viên gánh hát lang thang, bọn bịp bợm trộm cắp, lũ người hành hạ dân da đen, bọn quý tộc miền Nam, là những đòn đả kích vào một xã hội thối nát, vô luân, với những đầu óc nghèo nàn. Qua Gim và qua kinh nghiệm bản thân mình, Hâc đọc được rất nhiều về nhân phẩm. Gim lại bị bắt lại, nhưng Hâc sẽ lại cứu Gim thoát. Câu chuyện kết thúc với một viễn ảnh buồn buồn: Hâc sẽ phải trở lại trường đi học, nhưng vẫn mơ ước đến sống với người da đỏ. Tác giả lên án nền đạo đức mù quáng của một xã hội chủ trương bảo tồn chế độ nô lệ đang tan rã.
Cũng như truyện “Du ký của Gulivơ” do tác giả Anh Swift viết, tác phẩm của Tuên đồng thời là để tiêu khiển và cũng để chế giễu nhân loại điên rồ và nhỏ nhen. Có điều khác là Swift thì cay độc và trắng trợn còn trong cái cười cợt của Tuên vẫn còn lắng cái ưu buồn của một tâm hồn vẫn còn tin vào lý tưởng, ngay cả trong những tác phẩm cuối đời rất bi quan.
Có thể coi “Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin” là phần tiếp cuốn tiểu thuyết “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” 1876, viết trước đó 8 năm. Tom, bạn của Hâc là một cậu bé sắc sảo, có cá tính tinh nghịch. Cậu sống với bà cô Poly trong một xã hội công thức cũng được mà sống lêu têu với cậu bé vô gia cư Hâc Fin cũng hợp. Một đêm sáng trăng, chúng rủ nhau ra nghĩa địa để chữa chai chân bằng một con mèo chết. Tình cờ chúng được chứng kiến một tên lưu manh là Jô giết người. Nhưng một người là Potơ lại bị kết án oan. Hai em bé sợ Jô không dám nói lên sự thật; trốn đi ở một hòn đảo; chúng qua mấy ngày hút thuốc lá và nói tục. Khi chúng về thành phố thì mọi người tưởng chúng đã chết, đang đọc điếu tang khen ngợi chúng. Ở phiên tòa xử Potơ, Tom nói lên sự thật để minh oan cho Potơ. Jô trốn thoát. Về sau, Tom và người yêu lạc vào trong động, nơi tên sát nhân Jô ẩn náu. Tom cùng người yêu trốn thoát và sau lộn lại tìm được kho vàng Jô chôn ở đó.
Mac Tuên (1835 – 1910) là bút danh của S.L.Clemơnx. “Mac Tuên” là từ chuyên môn của những người lái tàu thủy trên sông Mixixipi, có nghĩa là “Hải sải – 4m”, độ sâu an toàn cho tàu đi được. Ông làm thợ in, hoa tiêu trên sông Mixixipi, lính, thợ mỏ, người tìm mỏ, nhà báo. Tác phẩm đầu tiên nổi tiếng của ông là “Con ếch nhảy trứ danh của hạt Calavarax” 1865, một câu chuyện cổ được viết lại một cách châm biếm. Hai cuốn truyện phiêu lưu về Tom Xoyơ (1876) và Hâc Fin (1884) là những tác phẩm hầu như thanh thiếu niên nước nào cũng biết, gợi lại thời thanh thiếu niên gian khổ của tác giả. “Những người ngây thơ ở nước ngoài” (1869) là một tập du ký trào phúng. Sau khi chuyển sang ở tại miền Đông (1867), Tuên viết nhiều tác phẩm trào phúng phê phán xã hội. Cuốn tiểu thuyết “Thời đại hoàng kim” (1873) phân tích quá trình công nghiệp hoá và ảnh hưởng của nó đến con người, ông phê phán xã hội Mỹ những năm tranh nhau làm giàu ở Mỹ cuối thế kỷ 18. Khi đã có tuổi, Tuên cũng phên phán sâu sắc hơn nhưng sai trái của thời đại, lên án nền độc tài của Sa hoàng, tính chất vô nhân đạo của thực dân ở Cônggô, đế quốc Mỹ ở Cuba và Philippin, chiến tranh đế quốc ăn cướp, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đầu cơ, tôn giáo, giả đạo đức… Tuên thích cười và rỡn, những mỗi câu chuyện của ông lại là một tấn bi kịch. Ông còn mở đường cho chủ nghĩa tự nhiên trong văn học.
(Sưu tầm)
Mac Tuên (1835 – 1910) là bút danh của S.L Clemơnx. Tuổi thơ gắn liền với dòng sông Mixixipi. 12 tuổi bước vào cuộc đời phiêu bạt kiếm sống: làm thủy thủ, đi tìm vàng, làm phóng viên, viết văn, đi nhiều nơi ở châu Mĩ La tinh và sang cả châu Âu.
Sử dụng ngôn ngữ dân gian và chất hài hước đặc biệt Mĩ với cảnh sắc miền Tây là nét đặc sắc nghệ thuật của Mac Tuên. Tác phẩm nổi tiếng nhất: Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ (1876) và Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin (1884).
Cảm nhận của anh (chị) sau khi đọc “Mải mê chinh chiến và yêu đương”
trong truyện “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” (Mac Tuên)
trong truyện “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” (Mac Tuên)
“Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” (1876) và “Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin” (1884) là 2 tác phẩm đặc sắc, độc đáo của nhà văn Mác Tuên (1835 – 1910). Màu sắc dân dã bình dị trong ngôn ngữ, chất hài hước đặc biệt Mĩ, “nhân vật truyền thống của miền Tây” đã tạo nên tính hấp dẫn và vẻ đẹp văn chương của Mac Tuên. Tinh thần phiêu lưu mạo hiểm, thái độ chống chế độ phân biệt chủng tộc, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và không khí kì ảo của miền Tây là những nét nổi bật tính chất Mĩ trong các tiểu thuyết của nhà văn danh tiếng này.
Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ, của Hâc Fin như đã làm sống lại những năm tháng lưu lạc, phiêu bạt của Mac Tuên bên dòng sông Mixixipi hơn 150 năm về trước. Tác phẩm “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” gồm có 35 chương và một lời bạt. “Mải mê chinh chiến và yêu đương” là chương thứ 3 của truyện. Trong chương này, tác giả kể lại cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ: phiêu lưu đánh trận giả và phiêu lưu trong tình yêu với người đẹp của thị trấn Xên Pitơxbơ. Bằng một giọng kể hóm hỉnh, vừa cảm thông vừa giễu cợt, Mac Tuên đã đưa độc giả trở về sống với thế giới tuổi thơ nhiều mộng tưởng và thích phiêu lưu của thiếu niên miền Tây nước Mĩ giữa thế kỷ thứ 19.
Tom Xoyơ là một đứa trẻ hiếu động, tinh nghịch, thích phiêu lưu, ở với bà dì tuy thương cháu nhưng rất khó tính. Bạn của Tom là những đứa trẻ rất ham chơi. Sáng nay, Tom đã lập mưu trốn được dì Poly để đi “chinh chiến”. Chú giả vờ đi vòng khu nhà mình rồi rẽ quặt vào một con đường nhỏ lầy lội phía sau chuồng bò của dì Poly. Sổ lồng! Chú chẳng còn sợ “bị bắt” và bị “trừng phạt” nữa, chú oai vệ đi về bãi chiến trường “khu đất rộng trong làng”. Chiến binh dưới quyền đang chờ vị tướng chỉ huy tới. Hai đại đội “chiến binh”, một do Tom chỉ huy, một do Jô Harpơ cầm đầu sẽ giao chiến. Hai vị đại tướng cầm quân và chỉ huy trận đánh như trong sử sách. Cuộc ác chiến kéo dài. Quân của Tom đại thắng. Khi hai đội quân xếp hàng rời trận địa, thì Tom trở về nhà một mình. Trận đánh giả của lũ trẻ cn thị trấn Xên Pitơxbơ diễn ra như thật. Hàng loạt từ ngữ nhà binh được tác giả đưa vào vừa gợi tả được không khí chiến trận, vừa làm nổi bật được chất phiêu lưu mải mê chinh chiến của Tom và lũ bạn. Nào là “chiến binh, chỉ huy, đại tướng, tác chiến, sĩ quan tùy tùng”. Nào là “ác chiến, đại thắng, tử trận, trao đổi tù binh, điều khoản, tác chiến”, v.v… Tom xuất hiện trên chiến trường rất oai vệ: ngồi trên mô đất cao chỉ huy, thông qua sĩ quan tùy tùng điều khiển lũ tiểu yêu xung trận. Khi trận đánh kết thúc, là kẻ chiến thắng, Tom trở về nhà một mình. Tất cả đều thể hiện phong độ cầm quân của một đại tướng, một vị anh hùng có tài thao lược và dạn dày chiến trận!
Trận đánh giả mà tả như thật, rất sống động, đã làm nổi bật “vai trò” của Tom trong chúng bạn, là đứa “cầm đầu” lũ tiểu yêu trong làng, nô đùa và nghịch như giặc! Là một đại tướng cầm quân, là kẻ chiến thắng, Tom được miêu tả bằng những nét sắc sảo, hiếu động, thích phiêu lưu, chú luôn luôn muốn “tháo cũi sổ lồng” ra khỏi khuôn khổ chật hẹp, tù túng của gia đình và “Trường học Chủ nhật” thị trấn Pitơxbơ.
Vị đại tướng rời trận địa trong ánh hào quang chiến thắng lại lao vào một cuộc phiêu lưu mới, cuộc phiêu lưu tình yêu. Xưa kia hiệp sĩ Đôn Kihôtê chả là đã có tình nhân xinh đẹp – công nương Đuyn Xinêa đó sao? Là một anh hùng hảo hán, Tom có kém ai, chú cũng có cô bé Amy Lôrenxơ một tình nhân “đắm đuối mê say” mà chú tự hào cho “mối tình của mình như một cái gì thiêng liêng ghê gớm”. Phải mất mấy tháng ròng để chinh phục cô nàng. Hạnh phúc chỉ có “vẻn vẹn 7 ngày ngắn ngủi”, giờ đây đó chỉ là chút tình vụn thoảng qua, và hình ảnh Lôxenxơ đã rời khỏi trái tim chú như người khách lạ sau khi tình cờ ghé thăm. Vừa ra khỏi bãi chiến trường, Tom thoáng gặp cô bé Bécky - tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng - vị anh hùng vừa đại thắng chưa bắn một phát súng nào đã ngã gục. Chú bé miền Tây này cảm thấy mình đã lớn, cũng muốn sống và hành động theo các anh hùng hảo hán, các trang hiệp sĩ trong các sách phiêu lưu mà chú đã ngốn qua. Tom “mê tít, lấm lét nhìn nàng tiên mới giáng trần kia”. Phải chiếm bằng được trái tim người đẹp. Phải trổ tài để cho cô nàng “mắt xanh biếc” có “bộ tóc vàng tết thành đôi bím dài”, mặc áo trắng mùa hè và chiếc quần thêu kia “phải khâm phục”. Giọng văn càng trở nên hóm hỉnh, khi tác giả nói về hình ảnh Tom đang nhào lộn khoe tài. Con gà trống thì cất tiếng gáy, khoe cái mào đỏ tía với ả mái tơ. Con công trống thì vừa múa vừa xoè bộ lông sặc sỡ trước con công mái đang ngẩn ngơ “tố hộ”. Còn Tom cũng vậy, “ra sức trổ tài bằng đủ trò trẻ con nực cười” để chinh phục nàng “mắt xanh biếc”. Lúc thì chú ta biểu diễn “một ngón nhào lộn nguy hiểm”, lúc thì chú ta “liếc mắt” nhìn theo cô bé. Giữa lúc “cái trò điên rồ lố lăng đó” đang diễn ra thì nàng tiên đi vào trong nhà. “Tom bước tới ngả người vào hàng rào, buồn rầu”. Lại “hy vọng” khi thấy cô bé nán lại chốc lát. Chú “thở dài đánh sượt một cái” khi người đẹp đặt chân lên ngưỡng cửa. Và rồi “nét mặt chú bỗng tươi hẳn lên” khi chú ta nhìn thấy “cô bé vứt qua hàng rào một bông hoa păng xê”.
Nhà văn đã dành cho bạn đọc bao thú vị để mỉm cười khi ngắm nhìn chú Tom làm trò lố lăng để chinh phục mĩ nhân. Người đẹp tặng hoa vị đại tướng sao lại “vứt qua hàng rào”, thật chẳng nhã một tí nào! Thế nhưng, Tom nhặt tặng phẩm ấy rất phong tình, độc đáo. Chú chạy vòng quanh đến cách bông hoa độ vài bước thì dừng lại. Chưa nhặt tặng phẩm vội, chú nhặt một cọng rơm và làm xiếc “ngửa mặt lên trời, giữ cho cọng rơm được thăng bằng, lắc người nhích dần đến hoa păngxê. Rồi chú đè bàn chân đi đất của mình lên bông hoa, dùng ngón chân khéo léo quặp lấy vật báu kia rồi cứ thế nhảy lò cò đi thẳng”. Ai mà được mục kích cảnh chú tom nhặt hoa của ngưới đẹp chắc chắn phải ôm bụng phì cười. Cũng nên nghĩ tới đôi chân trần của chú ta vừa mới đi tắt qua con đường nhỏ sau chuồng bò dì Poly. Chẳng sạch sẽ một tí nào thế mà giờ đây chú dùng những ngón chân ấy để “nâng niu” tặng phẩm của người đẹp! Hài hước hơn nữa, chú cũng học đòi người lớn, làm theo các hiệp sĩ xa xưa, chú “nhét bông hoa vào bên trong áo, gần ngay trái tim”. Thật hóm hỉnh khi tác giả hạ một câu: “… gần ngay trái tim – hay gần dạ dày chưa biết chừng vì chú không hiểu biết lắm về các bộ phận trong cơ thể con người, và được cái cũng chẳng lấy gì là khó tính”. Đứa cháu của dì Poly đến “Trường Chủ nhật” chỉ chơi, làm đầu trò cho lũ bạn, nào có để tâm mấy đến chuyện học hành. Chú chỉ lo mải mê chinh chiến. Một tá bi, một thằng lính chì, hai con nòng nọc, một khẩu đại bác bằng lõi chì, vân vân, đấy là gia tài, là thế giới mê say của Tom, vì thế, chú nào có biết tim ở đâu, dạ dày con người ở đâu! Rắc rối quá! Vả lại biết để làm gì? Nó chẳng giúp ích gì cho chú trong các cuộc mải mê chinh chiến và yêu đương này.
Người đọc mỉm cười tự hỏi: Cô bé Bécky đã khâm phục và “phải lòng” Tom nên đã tặng hoa? Hay là thương hại, chế giễu vị đại tướng đa tình đi chân đất? Cuộc tình nào mà chẳng có ẩn số? Trong cái dư vị ngọt ngào mà đóa hoa păng xê của người đẹp ban tặng Tom đã quay trở lại hàng rào tiếp tục “trổ tài” cho đến sẩm tối. Thật buồn cười vì cô bé chẳng ló mặt ra một lần nào nữa nhưng Tom cứ đinh ninh là người đẹp đứng nấp sau một cửa sổ nào đó nhìn ra… Đây là “mối tình thứ 2” của chú sao chú khờ khạo và ngờ nghệch thế! Chú bé thị trấn Xên Pitơxbơ đang tìm hiểu, đang học đòi những thiên diễm tình của các hiệp sĩ – công nương mà chú đọc được trong sách. Chú đã về nhà “trong đầu óc đáng thương tràn đầy ảo ảnh” và cả buổi tối ấy chú “vui như sáo” đã làm cho dì Poly phải ngạc nhiên.
Cái tài của Mac Tuên là đã diễn tả rất hay những trò chơi phiêu lưu của trẻ con Bắc Mĩ, đã vẽ rất thần tình sự vụng dại, khờ khạo của một đứa trẻ miền Tây cảm thấy mình đã lớn, tập là người lớn, nhưng vẫn chưa thoát “lốt” trẻ con, dấn thân vào các cuộc phiêu lưu tình ái. Trước cái vụng dại, khờ khạo, hồn nhiên của Tom, nhà văn độ lượng mỉm cười sống lại tuổi thơ trong sáng và sôi nổi của mình bên dòng sông Mixixipi thuở nào. Ta cảm thấy ông đang mỉm cười, nheo mắt nhìn chú Tom nhào lộn, làm trò và nhặt hoa păngxê của người đẹp vứt qua hàng rào! Với tấm lòng nhân hậu bao dung, với giọng văn kể chuyện hài hước, ông đã đem đến cho chúng ta những chuyện vui nực cười của trẻ con miền Tây nước Mĩ.
Nền văn học Mĩ, con người và đất nước Mĩ còn xa lạ và mới mẻ đối với số đông trong chúng ta. Những Tom Xoyơ, Hâc Fin và bạn bè của họ, những trò chơi, những cảnh sắc miền Tây và dòng sông Mixixipi còn rất ngỡ ngàng đối với chúng ta. Chỉ có điều, đọc “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” ta cảm phục Mac Tuên là một nhà văn có biệt tài, rất yêu trẻ con và kể chuyện rất hóm hỉnh về thế giới trẻ con./.
Bài đọc tham khảo
Bậc thầy của văn học trào phúng: Mac Tuên.
Chúng ta đã làm quen với Mac Tuên và cuộc sống phiêu lưu sông nước thời niên thiếu của ông bên dòng Mixixipi. Mac Tuên còn là bậc thầy của văn học trào phúng Mỹ và thế giới, đặc biệt với cuốn tiểu thuyết giang hồ “Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin”.
Nhà văn Mỹ lỗi lạc Hêminguây đã đánh giá tác phẩm ấy như sau: “Tất cả văn học Mĩ hiện đại đều xuất phát từ cuốn sách của Mac Tuên tên là “Hâc Fin”. Đó là tác phẩm hay nhất của chúng ta. Tất cả những gì trước tác ở Mỹ đều từ đó mà ra. Trước đó không có gì. Từ sau đó, không có gì cho đến nay hay bằng”
Cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1884 làm sống lại thời Mỹ còn là đất thuộc địa của Anh, chưa độc lập. Tác giả chọn khung cảnh lưu vực hai con sông nhánh Missiri và Ôhaiô với cuộc sống bạo lực của dân tứ chiếng trong các phố xá tồi tàn mới xuất hiện. Câu chuyện kể về chú bé Hâc Fin tiêu biểu cho thiếu niên thời ấy. Bố cậu là một người thiếu nhân phẩm, dân rượu chè. Chú bị bỏ rơi, tuy được một số người tốt bụng nuôi dạy. Chú cùng bạn Tom Xoyơ tìm ra của cải do bọn cướp cất giấu. Bố đánh hơi biết, bắt chú đến ở một lều hoang bên sông để tính đường nã của. Hâc trốn được lên một đảo hoang giữa sông, gặp Gim, một thanh niên nô lệ da đen cũng đương đi trốn. Câu chuyện của họ trôi theo dòng sông, trên một cái mảng, với những cuộc đột nhập vào những khu dân cư hai bên bờ. Áng văn cổ điển Mỹ này miêu tả các mùi vị, tiếng động, các thổ ngữ và nhịp sống trên sông. Những cuộc gặp gỡ của Hâc và Gim với những diễn viên gánh hát lang thang, bọn bịp bợm trộm cắp, lũ người hành hạ dân da đen, bọn quý tộc miền Nam, là những đòn đả kích vào một xã hội thối nát, vô luân, với những đầu óc nghèo nàn. Qua Gim và qua kinh nghiệm bản thân mình, Hâc đọc được rất nhiều về nhân phẩm. Gim lại bị bắt lại, nhưng Hâc sẽ lại cứu Gim thoát. Câu chuyện kết thúc với một viễn ảnh buồn buồn: Hâc sẽ phải trở lại trường đi học, nhưng vẫn mơ ước đến sống với người da đỏ. Tác giả lên án nền đạo đức mù quáng của một xã hội chủ trương bảo tồn chế độ nô lệ đang tan rã.
Cũng như truyện “Du ký của Gulivơ” do tác giả Anh Swift viết, tác phẩm của Tuên đồng thời là để tiêu khiển và cũng để chế giễu nhân loại điên rồ và nhỏ nhen. Có điều khác là Swift thì cay độc và trắng trợn còn trong cái cười cợt của Tuên vẫn còn lắng cái ưu buồn của một tâm hồn vẫn còn tin vào lý tưởng, ngay cả trong những tác phẩm cuối đời rất bi quan.
Có thể coi “Những cuộc phiêu lưu của Hâc Fin” là phần tiếp cuốn tiểu thuyết “Những cuộc phiêu lưu của Tom Xoyơ” 1876, viết trước đó 8 năm. Tom, bạn của Hâc là một cậu bé sắc sảo, có cá tính tinh nghịch. Cậu sống với bà cô Poly trong một xã hội công thức cũng được mà sống lêu têu với cậu bé vô gia cư Hâc Fin cũng hợp. Một đêm sáng trăng, chúng rủ nhau ra nghĩa địa để chữa chai chân bằng một con mèo chết. Tình cờ chúng được chứng kiến một tên lưu manh là Jô giết người. Nhưng một người là Potơ lại bị kết án oan. Hai em bé sợ Jô không dám nói lên sự thật; trốn đi ở một hòn đảo; chúng qua mấy ngày hút thuốc lá và nói tục. Khi chúng về thành phố thì mọi người tưởng chúng đã chết, đang đọc điếu tang khen ngợi chúng. Ở phiên tòa xử Potơ, Tom nói lên sự thật để minh oan cho Potơ. Jô trốn thoát. Về sau, Tom và người yêu lạc vào trong động, nơi tên sát nhân Jô ẩn náu. Tom cùng người yêu trốn thoát và sau lộn lại tìm được kho vàng Jô chôn ở đó.
Mac Tuên (1835 – 1910) là bút danh của S.L.Clemơnx. “Mac Tuên” là từ chuyên môn của những người lái tàu thủy trên sông Mixixipi, có nghĩa là “Hải sải – 4m”, độ sâu an toàn cho tàu đi được. Ông làm thợ in, hoa tiêu trên sông Mixixipi, lính, thợ mỏ, người tìm mỏ, nhà báo. Tác phẩm đầu tiên nổi tiếng của ông là “Con ếch nhảy trứ danh của hạt Calavarax” 1865, một câu chuyện cổ được viết lại một cách châm biếm. Hai cuốn truyện phiêu lưu về Tom Xoyơ (1876) và Hâc Fin (1884) là những tác phẩm hầu như thanh thiếu niên nước nào cũng biết, gợi lại thời thanh thiếu niên gian khổ của tác giả. “Những người ngây thơ ở nước ngoài” (1869) là một tập du ký trào phúng. Sau khi chuyển sang ở tại miền Đông (1867), Tuên viết nhiều tác phẩm trào phúng phê phán xã hội. Cuốn tiểu thuyết “Thời đại hoàng kim” (1873) phân tích quá trình công nghiệp hoá và ảnh hưởng của nó đến con người, ông phê phán xã hội Mỹ những năm tranh nhau làm giàu ở Mỹ cuối thế kỷ 18. Khi đã có tuổi, Tuên cũng phên phán sâu sắc hơn nhưng sai trái của thời đại, lên án nền độc tài của Sa hoàng, tính chất vô nhân đạo của thực dân ở Cônggô, đế quốc Mỹ ở Cuba và Philippin, chiến tranh đế quốc ăn cướp, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đầu cơ, tôn giáo, giả đạo đức… Tuên thích cười và rỡn, những mỗi câu chuyện của ông lại là một tấn bi kịch. Ông còn mở đường cho chủ nghĩa tự nhiên trong văn học.
(Sưu tầm)
Aragông và bài thơ Enxa ngồi trước gương
Aragông (1897-1982)
Aragông là nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Pháp trong thế kỷ 20. Hành trình thế kỷ của ông cũng là hành trình của chân lý nghệ thuật và hành trình lý tưởng cách mạng. Nếu “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng… Máu tôi đỏ và tim tôi yêu nước” thì Enxa đã “tái sinh” đời ông và khơi nguồn cảm hứng dào dạt thi ca của ông:
Là người lính từng tham dự thế chiến lần thứ nhất và lần thứ hai. Ba thập niên trôi qua mà tâm hồn Aragông vẫn u ám, chán nản. Năm 31 tuổi ông gặp Enxa cô gái Nga kiều diễm, nữ văn sĩ, tâm hồn ông được hồi sinh, như ông đã viết:
Enxa là người vợ thủy chung, là bạn văn chương chí thiết, là đồng chí chiến đấu sinh tử có nhau của Aragông. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, có lúc Aragông tự ví đời ông “như một trái cây, bị sâu ăn ba mươi năm một nửa, còn nửa kia ít nhất ba mươi năm nữa, ông trả cho Enxa để cắm ngập răng vào” (Aragông lấy Enxa năm ông 31 tuổi)
Aragông để lại hàng nghìn trang tiểu thuyết qua các tác phẩm như “Những khu phố”, “Những hành khách trên xe”, “Ôrêliêng”, “Những người cộng sản”, “Tuần lễ thánh”, v.v… Văn nghiệp rạng ngời của Aragông là ở “Vườn thơ Enxa”, gồm có 5 khúc ca chính: “Đôi mắt và trí nhớ”, “Cuốn tiểu - thuyết chưa hoàn thành”, “Các nhà thơ”, “Enxa” và “Anh chàng say đắm Enxa”.
Có thể nói hình tượng Enxa cũng là tâm hồn, là tình yêu và lẽ sống cao đẹp của Aragông. Người ta nhắc tên Aragông là nhắc đến tên tuổi một trí thức Pháp lỗi lạc, một chiến sĩ yêu nước chống phát xít, một nhà văn, nhà thơ từng viết nên những khúc ca được ngợi ca là “tác phẩm loại hay nhất của thơ ca châu Âu thế kỷ 20” (M.Alighe).
Bài thơ “Enxa ngồi trước gương”
Bài thơ “Enxa ngồi trước gương” được Aragông viết vào cuối năm 1942, đầu năm 1943, sau được in trong tập “Tiếng kèn trận Pháp” xuất bản năm 1946, một năm sau khi thủ đô Paris được giải phóng. Nó được đánh giá là “những vần thơ sáng bừng lên ngọn lửa” trong những năm tháng Aragông – Enxa cùng chiến đấu trong Phong trào kháng chiến chống phát xít Đức, hoạt động bí mật giữa thủ đô Paris đang bị quân thù chiếm đóng.
Bài thơ gồm có 30 câu, 4 khổ đầu 20 câu thơ nói về Enxa chải tóc; 5 khổ sau gồm 10 câu thơ diễn tả tâm tư của Enxa và suy ngẫm của tác giả. Không có dấu chấm câu giữa các dòng thơ; các điệp ngữ và lặp hình ảnh ở một tần số cao thể hiện bút pháp nghệ thuật độc đáo của Aragông mà ta cảm nhận.
1. Mái tóc Enxa là một hình ảnh đầy ấn tượng được điệp lại rất nhiều lần: “Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ… Chiếc lược phân chia ánh lửa vàng óng ả… Và mái tóc vàng khi nàng đến ngồi soi”… Mái tóc vàng ấy được gắn liền với từ “lửa” tạo nên hình ảnh ẩn dụ không chỉ ngợi ca nhan sắc kiều diễm của Enxa mà còn khẳng định ý chí, nghị lực của nữ chiến sĩ đang kiên cường chống phát xít xâm lược!
Bài thơ được viết vào cuối 1942 đầu 1943 khi thế chiến thứ 2 đang diễn ra ác liệt. Cuộc chiến đấu chống họa phát xít đẫm máu đã được 4 năm, đang bước sang năm thứ 5. Cả châu Âu và thủ đô Paris đang bị phát xít Đức giày xéo. Aragông đã nói rõ điều đó:
Có hiểu được tính hiệu “thứ 5… hàng tuần” mới cảm nhận được ý thơ “bi kịch của ta”, mới cảm nhận được hình ảnh “Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ - Bàn tay nàng như kiên trì giập lửa”…
2. Cùng với hình ảnh “mái tóc vàng rực rỡ” là hình ảnh “tấm gương soi” cũng được nhắc lại rất nhiều lần: “Một ngày dài ngồi bên tấm gương soi… Suốt ngày dài ngồi bên tấm gương soi,… Cuộc đời oái oăm như tấm gương soi… Nàng thấy nhòa đi trong tấm gương soi…” – “Tấm gương soi” và từ “trí nhớ” gắn liền với nhau như hình với bóng; tất cả đầu mang hàm nghĩa; tấm gương phản chiếu tâm hồn, tấm gương chiếu sáng cuộc đời (cuộc thế chiến 2, cuộc chiến đấu), tấm gương của tình yêu, của tình bạn thủy chung, trong sáng:
3. Câu thơ “Một ngày dài ngồi bên tấm gương soi – Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ” là một câu thơ đẹp đầy ý vị. Tác giả lấy thời gian (một ngày dài), lấy không gian (bên tấm gương soi), lấy cử chỉ (chải miết mái tóc) - để diễn tả tâm tư day dứt, dằn vặt của Enxa. Nàng đau khổ vì nước Nga quê hương, nước Pháp, quê chồng đang bị phát xít Đức giày xéo. Ngọn lửa căm thù và uất hận quân xâm lược đang nung nấu trong tâm can nàng. Ý chí chiến đấu kiên cường và nghị lực lớn lao đang thắp sáng tâm hồn người nữ chiến sĩ đang đấu tranh cho tự do:
Có lúc đó là những suy nghĩ về sống và chết, về chiến đấu và hy sinh cho tự do của các chiến sĩ yêu nước; tên tuổi và khí phách mãi mãi ngời sáng: “Nàng thấy nhòa đi trong tấm gương soi – Các diễn viên bi kịch của ta đây – và đấy là các diễn viên ưu tú”. Những “diễn viên ưu tú” ấy là các chiến sĩ yêu nước Pháp, trong đó có hàng ngàn đảng viên Cộng sản Pháp, những đồng chí chiến đấu của Aragông – và Enxa, những anh hùng như Pêri, trước họng súng quân xâm lược vẫn hiên ngang, bất khuất: “Nếu phải đi trở lại – Tôi đi lại đường này… Anh hát dưới làn đạn - Cờ đỏ dựng lên rồi…” (Bài ca của người hát trong ngục rù tra tấn).
4. Ẩn hiện và thấp thoáng sau những hình ảnh về mái tóc vàng rực rỡ, về tấm gương soi,… là hình ảnh nhà thơ - chủ thể trữ tình – khi ngắm nhìn “Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ”, để rồi đăm chiêu suy ngẫm về “bi kịch của chúng ta”, về cuộc chiến đấu mất, còn, để tiêu diệt quân phát xít man rợ của các chiến sĩ yêu nước – các diễn viên ưu tú - giữa “đám lửa đêm dài” trong chiến tranh thế giới lần thứ 2:
Phần cuối bài thơ (trong bản tiếng Pháp và trong bài thơ dịch), từ “và” được điệp lại 5 lần, đứng ở vị trí đầu câu thơ: “Và đấy là… Và chẳng nêu tên… Và rõ ý sâu xa… Và mái tóc vàng… Và lẳng lặng chải…” – đã làm cho cảm xúc trữ tình dân lên cao trào, thắm thiết… Tâm tư, tình cảm của nhà thơ trở nên da diết, sôi nổi và mạnh mẽ vô cùng. Tự hào về người bạn đời thủy chung. Tự hào về các chiến hữu kiên cường, anh dũng “các diễn viên ưu tú”. Tự tin về con đường giải phóng và tự do:
Thật khó mà nói lên cảm nhận về tình cảm của thơ Aragông qua một bản dịch thơ? Trong cuộc chiến đấu đẫm máu giữa thế chiến khốc liệ, khi chân trời thắng lợi còn xa vời chưa hé rạng đông, thế mà câu thơ sáng lên trong màu vàng rực rỡ của mái tóc, trong tâm thế của người nữ chiến sĩ soi gương, mải miết chải tóc “như lơ đãng dạo khúc đàn êm ả”… là sự biểu hiện cao đẹp của tinh thần lạc quan yêu đời và tin tưởng mãnh liệt. “Enxa ngồi trước gương” là một khúc ca trữ tình và chiến đấu đầy thi vị về một tình yêu đẹp; tình yêu lứa đôi, tình chiến hữu, tình yêu tự do chan hòa với tình yêu nước và yêu lý tưởng cách mạng.
“Enxa ngồi trước gương” là một giai điệu trầm hùng của “Tiếng kèn trận Pháp” vang lên, trong ngọn gió thời đại. Một nửa thế kỷ đã đi qua mà ta vẫn còn nghe văng vẳng bên tai.
ST
Aragông là nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Pháp trong thế kỷ 20. Hành trình thế kỷ của ông cũng là hành trình của chân lý nghệ thuật và hành trình lý tưởng cách mạng. Nếu “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng… Máu tôi đỏ và tim tôi yêu nước” thì Enxa đã “tái sinh” đời ông và khơi nguồn cảm hứng dào dạt thi ca của ông:
“Và cuộc đời tôi rút cuộc
Tóm lại ở tên nàng Enxa”
Tóm lại ở tên nàng Enxa”
Là người lính từng tham dự thế chiến lần thứ nhất và lần thứ hai. Ba thập niên trôi qua mà tâm hồn Aragông vẫn u ám, chán nản. Năm 31 tuổi ông gặp Enxa cô gái Nga kiều diễm, nữ văn sĩ, tâm hồn ông được hồi sinh, như ông đã viết:
“Anh quả thật đã sinh từ môi ấy
Cuộc đời anh khởi sự tự em đây”
Cuộc đời anh khởi sự tự em đây”
Enxa là người vợ thủy chung, là bạn văn chương chí thiết, là đồng chí chiến đấu sinh tử có nhau của Aragông. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, có lúc Aragông tự ví đời ông “như một trái cây, bị sâu ăn ba mươi năm một nửa, còn nửa kia ít nhất ba mươi năm nữa, ông trả cho Enxa để cắm ngập răng vào” (Aragông lấy Enxa năm ông 31 tuổi)
Aragông để lại hàng nghìn trang tiểu thuyết qua các tác phẩm như “Những khu phố”, “Những hành khách trên xe”, “Ôrêliêng”, “Những người cộng sản”, “Tuần lễ thánh”, v.v… Văn nghiệp rạng ngời của Aragông là ở “Vườn thơ Enxa”, gồm có 5 khúc ca chính: “Đôi mắt và trí nhớ”, “Cuốn tiểu - thuyết chưa hoàn thành”, “Các nhà thơ”, “Enxa” và “Anh chàng say đắm Enxa”.
Có thể nói hình tượng Enxa cũng là tâm hồn, là tình yêu và lẽ sống cao đẹp của Aragông. Người ta nhắc tên Aragông là nhắc đến tên tuổi một trí thức Pháp lỗi lạc, một chiến sĩ yêu nước chống phát xít, một nhà văn, nhà thơ từng viết nên những khúc ca được ngợi ca là “tác phẩm loại hay nhất của thơ ca châu Âu thế kỷ 20” (M.Alighe).
Bài thơ “Enxa ngồi trước gương”
Bài thơ “Enxa ngồi trước gương” được Aragông viết vào cuối năm 1942, đầu năm 1943, sau được in trong tập “Tiếng kèn trận Pháp” xuất bản năm 1946, một năm sau khi thủ đô Paris được giải phóng. Nó được đánh giá là “những vần thơ sáng bừng lên ngọn lửa” trong những năm tháng Aragông – Enxa cùng chiến đấu trong Phong trào kháng chiến chống phát xít Đức, hoạt động bí mật giữa thủ đô Paris đang bị quân thù chiếm đóng.
Bài thơ gồm có 30 câu, 4 khổ đầu 20 câu thơ nói về Enxa chải tóc; 5 khổ sau gồm 10 câu thơ diễn tả tâm tư của Enxa và suy ngẫm của tác giả. Không có dấu chấm câu giữa các dòng thơ; các điệp ngữ và lặp hình ảnh ở một tần số cao thể hiện bút pháp nghệ thuật độc đáo của Aragông mà ta cảm nhận.
1. Mái tóc Enxa là một hình ảnh đầy ấn tượng được điệp lại rất nhiều lần: “Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ… Chiếc lược phân chia ánh lửa vàng óng ả… Và mái tóc vàng khi nàng đến ngồi soi”… Mái tóc vàng ấy được gắn liền với từ “lửa” tạo nên hình ảnh ẩn dụ không chỉ ngợi ca nhan sắc kiều diễm của Enxa mà còn khẳng định ý chí, nghị lực của nữ chiến sĩ đang kiên cường chống phát xít xâm lược!
Bài thơ được viết vào cuối 1942 đầu 1943 khi thế chiến thứ 2 đang diễn ra ác liệt. Cuộc chiến đấu chống họa phát xít đẫm máu đã được 4 năm, đang bước sang năm thứ 5. Cả châu Âu và thủ đô Paris đang bị phát xít Đức giày xéo. Aragông đã nói rõ điều đó:
“Ngay giữa hồi bi kịch của ta đây
Như thứ năm cứ hàng tuần ngồi đó”.
Như thứ năm cứ hàng tuần ngồi đó”.
Có hiểu được tính hiệu “thứ 5… hàng tuần” mới cảm nhận được ý thơ “bi kịch của ta”, mới cảm nhận được hình ảnh “Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ - Bàn tay nàng như kiên trì giập lửa”…
2. Cùng với hình ảnh “mái tóc vàng rực rỡ” là hình ảnh “tấm gương soi” cũng được nhắc lại rất nhiều lần: “Một ngày dài ngồi bên tấm gương soi… Suốt ngày dài ngồi bên tấm gương soi,… Cuộc đời oái oăm như tấm gương soi… Nàng thấy nhòa đi trong tấm gương soi…” – “Tấm gương soi” và từ “trí nhớ” gắn liền với nhau như hình với bóng; tất cả đầu mang hàm nghĩa; tấm gương phản chiếu tâm hồn, tấm gương chiếu sáng cuộc đời (cuộc thế chiến 2, cuộc chiến đấu), tấm gương của tình yêu, của tình bạn thủy chung, trong sáng:
- “Như cố tình nàng giày vò trí nhớ
Suốt ngày dài ngồi bên tấm gương soi”
- “Một ngày dài ngồi soi vào trí nhớ
Nàng thấy nhòa đi trong tấm gương soi”
- v.v…
Suốt ngày dài ngồi bên tấm gương soi”
- “Một ngày dài ngồi soi vào trí nhớ
Nàng thấy nhòa đi trong tấm gương soi”
- v.v…
3. Câu thơ “Một ngày dài ngồi bên tấm gương soi – Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ” là một câu thơ đẹp đầy ý vị. Tác giả lấy thời gian (một ngày dài), lấy không gian (bên tấm gương soi), lấy cử chỉ (chải miết mái tóc) - để diễn tả tâm tư day dứt, dằn vặt của Enxa. Nàng đau khổ vì nước Nga quê hương, nước Pháp, quê chồng đang bị phát xít Đức giày xéo. Ngọn lửa căm thù và uất hận quân xâm lược đang nung nấu trong tâm can nàng. Ý chí chiến đấu kiên cường và nghị lực lớn lao đang thắp sáng tâm hồn người nữ chiến sĩ đang đấu tranh cho tự do:
“Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ
Bàn tay nàng như kiên trì giập lửa
Ngay giữa hồi bi kịch của ta đây”.
Bàn tay nàng như kiên trì giập lửa
Ngay giữa hồi bi kịch của ta đây”.
Có lúc đó là những suy nghĩ về sống và chết, về chiến đấu và hy sinh cho tự do của các chiến sĩ yêu nước; tên tuổi và khí phách mãi mãi ngời sáng: “Nàng thấy nhòa đi trong tấm gương soi – Các diễn viên bi kịch của ta đây – và đấy là các diễn viên ưu tú”. Những “diễn viên ưu tú” ấy là các chiến sĩ yêu nước Pháp, trong đó có hàng ngàn đảng viên Cộng sản Pháp, những đồng chí chiến đấu của Aragông – và Enxa, những anh hùng như Pêri, trước họng súng quân xâm lược vẫn hiên ngang, bất khuất: “Nếu phải đi trở lại – Tôi đi lại đường này… Anh hát dưới làn đạn - Cờ đỏ dựng lên rồi…” (Bài ca của người hát trong ngục rù tra tấn).
4. Ẩn hiện và thấp thoáng sau những hình ảnh về mái tóc vàng rực rỡ, về tấm gương soi,… là hình ảnh nhà thơ - chủ thể trữ tình – khi ngắm nhìn “Nàng chải miết mái tóc vàng rực rỡ”, để rồi đăm chiêu suy ngẫm về “bi kịch của chúng ta”, về cuộc chiến đấu mất, còn, để tiêu diệt quân phát xít man rợ của các chiến sĩ yêu nước – các diễn viên ưu tú - giữa “đám lửa đêm dài” trong chiến tranh thế giới lần thứ 2:
“Chiến lược phân chia ánh lửa vàng óng ả,
Làm lóe sáng trong tôi bao trí nhớ”
Làm lóe sáng trong tôi bao trí nhớ”
Phần cuối bài thơ (trong bản tiếng Pháp và trong bài thơ dịch), từ “và” được điệp lại 5 lần, đứng ở vị trí đầu câu thơ: “Và đấy là… Và chẳng nêu tên… Và rõ ý sâu xa… Và mái tóc vàng… Và lẳng lặng chải…” – đã làm cho cảm xúc trữ tình dân lên cao trào, thắm thiết… Tâm tư, tình cảm của nhà thơ trở nên da diết, sôi nổi và mạnh mẽ vô cùng. Tự hào về người bạn đời thủy chung. Tự hào về các chiến hữu kiên cường, anh dũng “các diễn viên ưu tú”. Tự tin về con đường giải phóng và tự do:
“Các diễn viên bi kịch của ta đây
Và đấy là các diễn viên ưu tú
Và chẳng nêu tên mọi người đều rõ
Và rõ ý sâu xa đám lửa đêm dài
Và mái tóc vàng khi nàng đến ngồi soi
Và lẳng lặng chải ánh vàng rực lửa”
Và đấy là các diễn viên ưu tú
Và chẳng nêu tên mọi người đều rõ
Và rõ ý sâu xa đám lửa đêm dài
Và mái tóc vàng khi nàng đến ngồi soi
Và lẳng lặng chải ánh vàng rực lửa”
Thật khó mà nói lên cảm nhận về tình cảm của thơ Aragông qua một bản dịch thơ? Trong cuộc chiến đấu đẫm máu giữa thế chiến khốc liệ, khi chân trời thắng lợi còn xa vời chưa hé rạng đông, thế mà câu thơ sáng lên trong màu vàng rực rỡ của mái tóc, trong tâm thế của người nữ chiến sĩ soi gương, mải miết chải tóc “như lơ đãng dạo khúc đàn êm ả”… là sự biểu hiện cao đẹp của tinh thần lạc quan yêu đời và tin tưởng mãnh liệt. “Enxa ngồi trước gương” là một khúc ca trữ tình và chiến đấu đầy thi vị về một tình yêu đẹp; tình yêu lứa đôi, tình chiến hữu, tình yêu tự do chan hòa với tình yêu nước và yêu lý tưởng cách mạng.
“Enxa ngồi trước gương” là một giai điệu trầm hùng của “Tiếng kèn trận Pháp” vang lên, trong ngọn gió thời đại. Một nửa thế kỷ đã đi qua mà ta vẫn còn nghe văng vẳng bên tai.
ST
Subscribe to:
Posts (Atom)