Showing posts with label Phát minh vĩ đại. Show all posts
Showing posts with label Phát minh vĩ đại. Show all posts

Friday, August 24, 2012

[Phát minh] Kính viễn vọng phản chiếu Newton

Nguyên tắc của loại kính dùng gương này được James Gregory gợi ý , nhưng Newton là người đầu tiên  thực hành và xử dụng. Ông dùng  một gương  lồi để  làm hội tụ tia sáng.  Ông đã giải quyết được  sự sai lệch màu sắc. Loại gương này hiện vẫn còn dùng vì  mặc dù có  nhiều kiểu thiết kế khác.



Kính viễn vọng  phản chiếu Newton

   
   
Nguyên tắc :

Ðầu tiên ánh sáng  phản chiếu trở lên nhờ một tấm gương thứ nhất  có dạng parabole, tiếp theo, ánh sáng đi lệch  một phía nhờ phản chiếu qua một tấm gương  phẳng nằm nghiêng một góc 45° . Cuối cùng ánh sáng  qua những  thấu kính để  khuếch đại ảnh lên và đến  thị kính. Kính thiên văn phản chiếu đầu tiên  do Newton  làm ra  có  miếng gương đường kính 2,5m , được trưng bày  năm 1671 

Tấm gương chính lúc đầu được làm bằng thau. Sau đó  nhà hóa học Ðức Justus Liebig đã tìm cách  phủ một lớp bạc mỏng trên thủy tinh.  Ưu điểm của bạc  là   oxyd hóa  chậm hơn thau nhiều nhưng  nếu dùng  gương làm toàn bằng  bạc ròng thì tốn kém nên phương pháp mạ được xử dụng. Cuối cùng, năm 1918 người ta  tìm ra nhôm, với độ phản xạ ánh sáng lên đến 82% so với 65% độ phản xạ của bạc nên  nhôm được dùng để phủ lên gương thay cho bạc.

Trong thế kỷ 18, kính thiên văn  càng ngày càng to dần . Kể từ năm 1774, nhiều dụng cụ  rất tốt được William Herschel, người Ðức, sống tại Anh thiết lập. Với một trong những kính thiên văn của  mình, ông đã khám phá ra Uranus(1781), và năm 1789  ông đã hoàn thành một  kính thiên văn phản chiếu có đường kính 122 cm, là  kính thiên văn lớn nhất cho đến năm 1845.

Nhân vật xây dựng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ

Benjamen Franklin (1706 - 1790), nhà lập quốc Hoa Kỳ


Benjamin Franklin là một trong các nhân vật hàng đầu đã xây dựng nên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông là người duy nhất đã ký tên vào 4 văn kiện quan trọng trong Lịch Sử Mỹ Quốc, đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Hiệp ước Đồng Minh với Pháp, Hiệp Ước Hòa Bình với Anh và Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ.

Benjamin Franklin là một nhân vật đa diện. Ông đã từng làm thợ nấu xà bông, nấu nến, thợ in, nhà văn, nhà xuất bản, nhà khoa học và phát minh, nhân vật tổ chức và lãnh đạo cộng đồng… và cũng là một nhà ngoại giao có tài. Các phục vụ của ông trong công tác ngoại giao tại nước Pháp đã giúp ích rất nhiều trong cuộc chiến tranh giành Độc Lập của Hoa Kỳ. Nhiều sử gia Hoa Kỳ đã coi ông là nhà ngoại giao có khả năng nhất và thành công nhất từ xưa tới nay.


1- Thuở thiếu thời.

Benjanim Franklin sinh ngày 17 tháng 1 năm 1706 tại Boston, Massachusetts. Cậu là con trai thứ 15 và là út trong một gia đình 17 anh em. Tổ tiên của Benjanin sinh sống tại Anh Quốc và không thuộc một giòng họ danh tiếng. Các cụ làm nghề thợ rèn, song là những người thực thà, cần mẫn. Trong giòng họ này chỉ có cha của Benjamin, ông Josiah, sang lập nghiệp bên Mỹ Châu.

Ông Josiah có với người vợ trước 5 người con và người vợ sau 12. Ông cũng là con út trong gia đình và vì rất mến người anh ruột tên là Benjamin mà ông đặt cho con trai út của mình cái tên đó. Gia đình ông Josiah không được sung túc lắm nên các con của ông chỉ được theo đuổi việc học trong 2 hay 3 năm rồi kiếm một nghề tay chân. Ông cho các con làm các ngành nghề khác nhau, tùy theo sở thích và năng khiếu của từng đứa : thợ in, thợ nhuộm, thợ rèn . . .

Benjamin Franklin biết đọc, biết viết rất sớm, vì vậy ông Josiah định cho cậu sau này làm mục sư. Ở trường tiểu học, Benjamin học rất thông minh, tiến dần tới đầu lớp nhưng khi lên bậc trung học, vì tốn kém quá, ông Josiah đành cho con đến học tư toán và văn chương tại nhà ông Brownell song cậu Benjamin lại khá về văn chương mà kém về môn Toán.

Năm 1716, vì nghề nhuộm ế ẩm, ông Josiah phải đổi sang nghề làm nến và nấu xà bông. Benjamin phải thôi học, ở nhà giúp cha. Công việc của cậu là cắt bấc, đổ sáp vào khuôn, mua bán lặt vặt hay trông coi cửa hàng thay cha khi người bận việc.

Ngoài thời giờ giúp việc tại nhà, Benjamin thường hay chơi đùa cùng các bạn : nào bơi lội, nào chèo thuyền. Cậu không thích nghề nghiệp của cha mà mơ mộng trở thành thủy thủ song ông Josiah không bằng lòng cho con theo đuổi ngành này. Thấy con đã lớn mà còn lông bông, nên ông có ý tìm cho con một nghề kiếm ăn thích hợp. Ông đưa con đi thăm các cơ xưởng trong tỉnh để xem con ưa thích ngành nghề nào nhất.

Ngay từ thuở nhỏ, Benjamin đã thích đọc sách. Hễ gặp quyển sách nào là cậu nghiềm ngẫm say sưa, hễ được đồng tiền nào là cậu để dành rồi mua sách về đọc. Thấy con ưa thích sách như vậy, ông Josiah cho con theo hoc nghề in tuy rằng trong nhà đã có người con lớn, anh James, theo đuổi nghề này.

Năm 12 tuổi, Benjamin ký giao kèo với anh James nhận làm thợ in cho tới năm 21 tuổi mà không lãnh lương thực thụ. Một người tinh nhanh, chăm chỉ như Benjamin thì chẳng bao lâu đã thạo việc. Thực vậy, cậu đã giúp anh một cách đắc lực. Cũng nhờ theo nghề in này mà Benjamin đọc được nhiều sách hơn: các sách đưa đến in, đến đóng lại, cậu đều đọc qua, có khi cậu thức suốt đêm để đọc nốtù vì sáng ngày mai đã phải trả sách lại cho khách hàng. Cậu đã tự học được nhiều môn như đại số, hình học, văn phạm, luận lý, các môn vật lý và khoa học tự nhiên.

Một hôm, có một nhà buôn trong tỉnh lại thăm nhà in. Ông này thấy Benjamin ham mê đọc sách mà mình có sách thường để không, nên đã dẫn Benjamin về nhà mình và cho phép cậu mượn bất cứ quyển nào cậu muốn. Nhờ nghề in mà Benjamin đọc thông viết thạo hơn, song cậu còn kém về cách hành văn và từ ngữ không được dồi dào. Để sửa chữa, cậu nghĩ tới việc làm thơ. Anh James cũng khuyến khích em vì anh ta nghĩ có thể in thơ rồi đem bán được. Vì vậy vài ba quyển thơ cũng ra đời song cha cậu đã chế nhạo cậu vì ông biết rằng nghề làm thơ chỉ mang lại nghèo túng mà thôi.

Benjamin thường cùng với một người bạn cũng ham đọc sách, tranh luận về bất cứ đề tài nào. Lúc đầu, họ còn dùng lời, sau dùng chữ viết, nhờ vậy cậu thấy mình còn kém về phương pháp và lý luận còn thiếu minh bạch.

Năm 1721, anh James bắt đầu ra một tờ báo lấy tên là The New England Courant (Bản Tin Tân Anh Cát Lợi). Đây là tờ báo thứ nhì phát hành tại châu Mỹ. Vào thời đó, các nhà trí thức thường viết các bài báo song ký tên khác đi vì sợ chính quyền làm khó dễ. Nhiều người có tài đã gửi các bài viết rất hay, làm tăng gía trị cho tờ báo.

Benjamin cũng muốn viết báo song e ngại rằng nếu ký tên thật, anh James sẽ vứt ngay bài vào sọt rác, cậu bèn viết với tên hiệu là "Silence Dogood" rồi đợi đến đêm, ném bài qua khe cửa sổ nhà in. Sáng hôm sau, anh James nhận được bài, đọc thấy cũng khá đặc sắc nên cho in. Nhiều khi Benjamin còn được nghe anh và các bạn ca tụng các bài viết đó trước mặt mình. Họ tin chắc rằng các bài viết đó phải do một người học rộng, tài ba, mới viết nổi. Benjamin vẫn phải bấm bụng nhịn cười. Sau cùng, vì không giữ bí mật được nữa, cậu đành phải thú nhận mình là tác giả của các bài viết trên. Kể từ khi đó, các bạn của cậu trọng nể cậu hơn trước song anh James lại lấy làm khó chịu. Anh thường bắt em làm việc quá nhiều, có khi còn đánh đập em nữa. Vì vậy giữa anh em thường xẩy ra các vụ bất hòa. Anh James quả là một người anh bắt nạt em, một người chủ áp bức thợ.

Năm 16 tuổi, Benjamin được đọc một cuốn sách nói về sự ăn chay. Cậu liền quyết định theo đuổi cách dinh dưỡng này rồi đề nghị với anh xin một số tiền để nấu ăn lấy. Nhờ chỉ ăn rau, Benjamin đã để dành được phân nửa món tiền, đỡ mất thời giờ về ăn uống mà trí óc lại sáng suốt hơn trước. Thực vậy, trong khi anh James và các bạn ra quán ăn thì ở nhà, cậu thổi nấu ăn uống theo ý muốn và đọc được mấy chục trang sách rồi bọn kia mới bắt đầu ra về.

Năm 1723, tờ báo của anh James có đăng một bài xã luận xúc phạm đến chính quyền nên anh James bị bắt giam một tháng. Benjamin thay anh làm quản lý nhà in. Khi được tha về và vì bị cấm không được ra báo nữa, anh James đành phải nhờ em làm chủ nhiệm tờ báo. Vì luật pháp thời đó không cho phép một người làm công chịu trách nhiệm một công việc to tát như vậy nên anh James đành phải hủy bỏ tờ giao kèo bắt buộc Benjamin làm công với mình khi trước.

Ít lâu sau, một cuộc xung đột xẩy ra và Benjamin đã bỏ nhà ra đi. Về sau cậu hối hận mãi về điều này. Anh James liền thông báo cho các in trong tỉnh đừng mướn Benjamin. Vì vậy cậu phải đi New York là nơi có nhiều nhà in mà lại ở gần Boston nhất. Cậu Benjamin phải bán bớt sách để lấy tiền đi đường, lúc đó cậu mới 17 tuổi. Tới New York, Benjamin không tìm ra việc nhưng nhờ có người giới thiệu, cậu lại đi Philadelphia cách New York 160 cây số. Đây là thành phố lớn nhất của thuộc địa châu Mỹ thời bấy giờ. Đến nơi, cậu Benjamin vào ngay một hiệu bánh mì trên đường Market mua ba ổ bánh, mỗi ổ kẹp ở một nách rồi ăn ngấu nghiến ổ thứ ba. Một cô gái ở ngôi nhà đối cửa khi trông thấy cảnh đó, đã ôm bụng cười. Cô này tên là Deborah Read, vợ của Benjamin sau này.

Tại Philadelphia, Benjamin tìm được việc làm nơi nhà in của ông Samuel Keimer. Ít lâu sau, cậu quen được ông thống đốc Keith. Thấy cậu là người học rộng, ông Keith muốn giúp Benjamin làm chủ một nhà in. Ông ta bảo cậu kê khai các thứ cần mua rồi ông ta sẽ bỏ tiền và Benjamin sang Anh Quốc mua sắm các dụng cụ đó. Song ông Keith chỉ là người hứa suông, nên khi đã sang tới nước Anh rồi, cậu chẳng nhận được sự giúp đỡ nào cả, ngay cả bức thư giới thiệu. Benjamin đành phải làm công cho các nhà in Palmer và Watt.


2- Thời thanh niên.

Năm 21 tuổi, Benjamin trở về Philadelphia và lại giúp việc cho ông Keimer. Từ đây, Franklin đã trở nên một chàng thanh niên khôn ngoan, tháo vát. Việc đọc sách vẫn là sở thích của chàng. Franklin nghĩ rằng nếu riêng rẽ thì một người chỉ có thể đọc được một số sách. Vậy nếu một số người hiếu học họp lại với nhau, trao đổi sách báo và thảo luận cùng nhau thì sẽ có lợi biết bao. Chàng liền lập ra Câu Lạc Bộ Junto để các hội viên thay nhau thuyết trình về các vấn đề luân lý, chính trị và khoa học. Lúc đầu câu lạc bộ gồm 7 hay 8 hội viên hay đọc sách, họp với nhau vào chiều thứ sáu để thảo luận về các vấn đề đã nêu ra từ tuần lễ trước. Nhờ việc thảo luận này mà các hội viên đều tiến bộ về cách nói năng và sự nghiên cứu. Hơn nữa, cứ ba tháng mỗi hội viên lại phải sáng tác một luận án về bất cứ vấn đề gì. Câu Lạc Bộ Junto này đã nổi tiếng trong thành phố thời bấy giờ.

Năm 22 tuổi Franklin thôi không làm cho ông Keimer nữa mà mở một nhà in riêng với Hugh Meridith. Lúc đầu công việc còn ít song chàng cố gắng làm việc và yêu nghề, thức khuya dậy sớm, không bao giờ la cà tại các tửu quán nhờ vậy dân chúng tín nhiệm và các công việc thương mại càng tăng hơn.

Hồi đó giấy bạc khan hiếm, người ta e ngại nếu in thêm, đồng tiền sẽ mất gía còn nếu không in thì tình trạng kinh tế không được phát triển. Franklin liền mang việc này ra bàn với các hội viên Junto rồi chàng cho in một cuốn sách nhan đề là "Tính chất và sự cần thiết của giấy bạc". Việc làm này đã khiến cho Nghị Viện thành phố quyết định in thêm tiền và họ giao cho Franklin công việc đó vì chàng đã có công đóng góp. Nhờ thế mà nhà in của chàng có thêm việc làm.

Năm 24 tuổi, Franklin cưới cô Deborah Read, người đã cười chàng khi trông thấy chàng gặm ổ bánh mì lúc bắt đầu đặt chân tới Philadelphia. Deborah là người ít học song cặp vợ chồng Franklin là những người tận tụy làm việc. Họ có 3 con, 2 trai và 1 gái. Một người con trai tên là William, sau này trở nên Thống Đốc của tiểu bang New Jersey.

Franklin thấy rằng khi tra cứu thì cần phải có nhiều sách mà mỗi người chỉ có một số nhỏ. Vậy nếu các hội viên Hội Junto cùng mang sách đặt tại một nơi thì người nọ có thể đọc được sách của người kia và sự tra cứu sẽ dễ dàng hơn. Các hội viên đều nghe lời đề nghị này của Franklin. Việc này rất có lợi song cũng có điều bất tiện, chẳng hạn như ai cũng đòi hỏi người khác giữ gìn sách của mình cho cẩn thận nên một năm sau, Hội Junto phải giải tán tủ sách.

Franklin lại nghĩ đến việc lập một thư viện công cộng cho mượn sách. Chàng nhờ một viên chưởng khế thảo điều lệ. Hội viên có tới 100 người. Số tiền đóng góp của các hội viên dùng để mua sách bên nước Anh. Đây là thư viện đầu tiên tại Bắc Mỹ, nó đã mở đầu cho phong trào thư viện sau này. Chính nhờ có thư viện mà dân xứ Philadelphia thời đó có một trình độ văn hóa cao hơn dân của các vùng kế cận. Vì thế các miền chung quanh chẳng bao lâu cũng bắt chước làm công việc ích lợi kể trên.

Franklin tin rằng chăm chỉ bao giờ cũng vẫn là phương thuốc để trở nên giàu sang. Chàng cho rằng một người muốn thành công phải làm việc chăm chỉ hơn những kẻ đang cạnh tranh với mình. Chàng lại có ước vọng muốn trở nên một nhà đạo đức, muốn khắc phục mọi thói xấu để sống một cuộc đời trong sạch. Chàng thấy rằng tin tưởng suông vào đạo lý chưa đủ để giữ cho khỏi sa ngã, cần phải luyện tập các đức tính, xếp chúng theo thứ tự rồi thêm vào đó các định nghĩa để làm sáng tỏ các quan niệm về các đức tính đó:

1- Điều độ: không ăn đến chán, không uống đến say.

2- Yên lặng: không nói nếu lời nói không hữu ích cho người khác hoặc cho bản thân. Không nói dỡn cợt.

3- Thứ tự: xếp đặt mọi vật vào một chỗ riêng, các việc làm vào những thời giờ nhất định.

4- Quyết tâm: phải quyết tâm làm những việc cần. Việc gì đã quyết tâm rồi thì phải làm cho kỳ được.

5- Tiết kiệm: chỉ tiêu tiền về những việc có ích cho mình và cho người khác.

6- Chuyên cần: không bỏ phí thời giờ, lúc nào cũng làm việc hữu ích.

7- Thật thà: phải nói cho đúng, không nói xấu người, có những ý nghĩ lành mạnh.

8- Công bằng: không làm hại người khác và nhớ hưởng những gì mình đáng được hưởng.

9- Dung hòa: tránh mọi thái cực, chịu đựng những điều trách mắng nếu mình có lỗi.

10- Sạch sẽ: thân thể, quần áo và nhà cửa phải sạch sẽ.

11- Yên tĩnh: tránh ưu phiền về các việc thường xẩy ra hay không thể tránh được.

12- Trong sạch: tránh trác táng, hại sức khỏe, hại thanh danh của mình và của người khác.

13- Khiêm tốn: noi gương Chúa Jesus và Socrates.

Chính nhờ cách sửa mình này mà về sau, Benjamin Franklin đã trở nên một người khôn ngoan và đạo đức của Hoa Kỳ.

Năm 26 tuổi, Franklin thấy rằng cần phải phổ biến các tư tưởng hướng thiện, chàng liền soạn rồi cho xuất bản cuốn Niên Lịch lấy tên là "Niên Lịch của Richard nghèo khó" (Poor Richard's Almanach). Trong cuốn này, chàng đặt những tư tưởng cao thượng và ích lợi thành các châm ngôn để người đọc dễ nhớ hơn. Ngày nay các câu châm ngôn này còn được phổ thông chẳng hạn như câu "ngủ sớm, dậy sớm làm cho con người khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan" (Early to bed and early to rise makes a man healthy, wealthy and wise). Mọi người đã tán thưởng cuốn niên lịch đến nỗi 10 ngàn cuốn được xuất bản trong một năm và cứ thế kéo dài trong 25 năm liền, quả là một sự việc hi hữu tại một nơi và vào một thời kỳ mà tình trạng dân chúng còn kém mở mang.

Cũng vào năm 26 tuổi, chàng Franklin lập ra tờ báo lấy tên là Nhật Báo Philadelphia (the Philadelphia Gazette). Chàng đã làm phát triển tờ báo thành một trong các báo thành công nhất tại thuộc địa châu Mỹ. Chàng luôn luôn chú ý đến tư tưởng mới. Các sử gia Hoa Kỳ cho rằng Franklin là viên chủ nhiệm đầu tiên tại châu Mỹ đã cho phổ biến trên các trang báo những mẩu tranh hí họa và hướng dẫn các tin tức bằng bản đồ. Nhờ tờ báo của mình, Franklin đã trình bày cho dân chúng biết rõ nhiều dự án cải tiến công ích. Tờ báo Philadelphia đã sống được từ năm 1729 tới năm 1766. Franklin lại còn soạn thêm cuốn sách "Con đường dẫn tới giàu sang" (the Way to Wealth). Cuốn sách này cũng có một giá trị đặc biệt về kinh tế.

Năm 27 tuổi, Franklin cảm thấy cần phải biết thêm ngoại ngữ để dễ thông cảm với các dân tộc khác. Chàng liền bắt đầu học tiếng Pháp và chẳng bao lâu đã nói thạo và đọc sách tiếng Pháp một cách dễ dàng. Học xong tiếng Pháp rồi, chàng quay sang học tiếng Ý. Ít lâu sau, Franklin lại học tiếng Tây Ban Nha và rồi cũng thông thạo thứ ngôn ngữ này.

Năm 30 tuổi, nhờ sự hiểu biết của bản thân, nhờ sự tín nhiệm của mọi người, Franklin được bầu làm thư ký Nghị Viện Pennsylvania (the Pennsylvania Assembly). Thành phố Philadelphia càng ngày càng được mở mang mà chưa có một đội lính cứu hỏa, Franklin liền đứng ra thành lập đội quân tình nguyện này. Ông còn có công trong việc cải tiến cách tuần phòng trong thành phố.

Cũng vào năm 30 tuổi, Franklin được đề cử làm Giám Đốc Bưu Điện của Philadelphia. Cách làm việc hữu hiệu của ông đã khiến cho chính quyền Anh Quốc phải chú ý nên về sau, vào năm 1753, ông đã trở nên Phó Tổng Giám Đốc Bưu Điện của tất cả các miền đất thuộc địa Bắc Mỹ. Ông đã làm việc rất tận tâm, cải tiến rất nhiều dịch vụ Bưu Điện, làm tăng tốc độ chuyển thư bằng cách dùng tới các tầu biển chạy nhanh nhất qua Đại Tây Dương. Đối với các thư từ trong vùng, ông đã thuê mướn các người đưa thư đi ngựa chuyển thư cả ngày lẫn đêm. Ông cũng giúp cho xứ Canada thiết lập ra các dịch vụ bưu điện đầu tiên. Ông đã cho mở các trạm bưu điện tại Quebec, Montreal và Trois Rivière vào năm 1763 và rồi xếp đặt việc chuyển thư giữa Montreal và New York.

Benjamin Franklin cũng để ý tới sự cải tiến các dụng cụ thường dùng. Năm 36 tuổi, ông đã phát minh ra được một thứ lò sưởi không có khói, cho sức nóng gấp hai lần mà lại dùng 1/4 số lượng củi đốt. Phát minh của ông được phổ biến trong thành phố vì nó rất hợp với khoa học lại tiện lợi. Chính quyền định cấp cho ông bằng phát minh song ông từ chối và nói : "Tôi được dùng các phát minh của người khác thì tôi cũng sung sướng khi thấy phát minh của tôi đã giúp ích cho các người chung quanh".

Năm 37 tuổi, vì Hội Junto kém phát triển nên Franklin đề nghị lập ra "Hội Triết Học Mỹ Quốc" (the American Philosophical Society) gồm các người đạo đức, có kiến thức rộng, ở các thuộc địa khác nhau tại Bắc Mỹ. Hội Triết Học này được tổ chức theo lề lối của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc (the Royal Society). Nhiều người đã ghi tên tham dự và Franklin được bầu làm thư ký của Hội. Các hội viên thường trao đổi thư từ cùng nhau. Trụ sở của Hội đặt tại Philadelphia là thành phố trung tâm lại có thư viện đầy đủ và nhiều tương lai về kiến thiết.


3- Nhà Khoa Học.

Vào năm 40 tuổi, vì kinh tế gia đình đã khá đầy đủ nên Benjamin Franklin có thời giờ để tâm đến Khoa Học. Thời đó châu Mỹ nhận được các sách báo cùng các dụng cụ thí nghiệm về điện học từ nước Anh gửi sang. Hội Triết Học nhờ Franklin làm các thí nghiệm như đã mô tả sẵn, song không những ông đã làm lại được hoàn toàn các thí nghiệm đó mà còn khám phá ra được nhiều điều mới lạ.

Năm 42 tuổi, Franklin cắt nghĩa được sự phân phối điện tích ở chai Leyde. Sang năm sau, ông lập bảng nhận xét về các đặc điểm chung giữa điện và sét. Ngày nay người ta còn nhắc lại thí nghiệm về sét bằng chiếc diều của ông. Franklin vẫn quan niệm rằng sự phát điện từ chai Leyde cũng giống như sét đánh, song với một cường độ nhỏ hơn nhiều. Oâng tìm cách chứng minh. Nhân một ngày có bão, Franklin cùng con trai là William mang một chiếc diều ra thả. Cuối sợi dây diều, ông buộc một chiếc chìa khóa bằng các dải lụa. Bỗng nhiên ông nhận thấy các sợi của dải lụa tách ra như có một sức đẩy chúng xa nhau. Khi để ngón tay gần đầu nhọn của chiếc chìa khóa, một tia lửa bật ra và ông cảm thấy bị điện giật. Thí nghiệm này đã khiến ông kết luận rằng sét thường bị hút bởi các đầu nhọn bằng kim loại và ông tìm ra rằng các đám mây thường chứa điện âm. Khi thử lại với chai Leyde, Franklin thấy cùng kết quả. Ông lại có thể tiếp điện cho chai Leyde bằng điện của bầu trời. Thật là may mắn cho Franklin đã không bị sét đánh trong cuộc thí nghiệm táo bạo đó mà ông không biết, bởi vì về sau, Giáo Sư Richman thuộc Đại Học St. Petersbourg khi làm lại thí nghiệm của ông đã bị thiệt mạng.

Năm 44 tuổi, sau khi đã hiểu rõ về sấm sét, Franklin đã phát minh ra cột thu lôi. Ông dựng ngay trên nóc nhà của mình một cột rồi sau lại cải tiến thêm. Franklin phổ biến phát minh này bằng một bài đăng trong quyển niên lịch của mình. Cũng năm này, Franklin được bầu vào Nghị Viện Pennsylvania.

Franklin luôn luôn nghĩ tới việc khai hóa dân chúng. Đối với ông, Hội Triết Học không đủ. Ông cho xuất bản cuốn sách mỏng : "Các đề nghị liên quan tới vấn đề giáo dục các thanh niên ở Pennsylvania", nhờ vậy chương trình học đã được sửa đổi và nhà trường đã bắt đầu dạy tiếng La Tinh, Hy Lạp và Toán Học. Franklin được bầu làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị các trường Trung Học Pennsylvania. Philadelphia khi đó không có cơ sở đào tạo nền giáo dục cao cấp vì thế ông đã giúp tay vào việc thành lập Viện Hàn Lâm (the Academy) mà sau này là trường Đại Học Pennsylvania. Kết quả của các chương trình giáo dục và thư viện của Franklin đã giúp cho Pennsylvania trở nên một địa phương tiến bộ nhất trong 13 xứ thuộc địa thời bấy giờ.

Vào năm 1751, một người trong thành phố nghĩ đến việc lập ra một bệnh viện công cộng và một nhà tế bần, Franklin liền bắt tay ngay vào công tác thực hiện hai chương trình này.

Tháng 8 năm 1752, Franklin gửi cho ông Collison, nhân viên Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc những kết quả về các phát minh của mình. Tài liệu đó được đọc trước Hội Khoa Học vào tháng 12. Mọi nhà khoa học đều trầm trồ khen ngợi ông. Cuốn sách "Thí nghiệm và nhận xét về điện học" của ông được xuất bản tại London và năm sau, được dịch sang tiếng Pháp và in tại Paris.

Franklin cũng phát minh ra loại kính đeo mắt hai tròng (bifocal eyeglasses) nhờ đó kính đọc sách và kính nhìn xa được ghép chung vào một gọng kính. Ông cũng nhận thấy bệnh tật phát sinh nhiều tại các căn phòng kém thoáng khí và ông cũng chỉ dẫn cho dân chúng cách cải thiện đất đai có acít bằng vôi bột (lime).

Năm 47 tuổi, Franklin được Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc trao tặng huy chương vàng Copley và Vua Louis 15 đích thân khen ngợi ông về các phát minh điện học. Các trường đại học Harvard và Yale tặng ông bằng cấp Cử Nhân Danh Dự. Ông lại được đề cử làm Tổng Giám Đốc Bưu điện và đã giữ chức vụ này trong 21 năm liền.

Mùa xuân năm 1754, khi đó Franklin 48 tuổi, đã xẩy ra cuộc chiến tranh giữa người Anh và người Pháp tại châu Mỹ. Franklin cho rằng các thuộc địa Bắc Mỹ nên đoàn kết lại để tự bảo vệ chống lại người Pháp và sự quấy nhiễu của thổ dân da đỏ. Ông đã cho in tấm hình hài hước nổi tiếng có tên là "Tham gia hay là chết" (Join or Die) trên báo của minh. Tấm hình này vẽ một con rắn bị chặt ra thành nhiều khúc, tượng trưng cho các thuộc địa Bắc Mỹ. Ông đã đề nghị Chương Trình Liên Bang (Plan of Union) tại hội nghị 7 xứ thuộc địa họp tại Albany, New York. Theo chương trình này, 13 xứ thuộc địa nên cùng nhau họp lại thành "một chính phủ tổng quát" (one general government). Chương trình liên bang đó đã chứa đựng các ý tưởng mà sau này có trong Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Các đại biểu tại Hội Nghị Albany đã đồng ý với chương trình của Franklin nhưng các thuộc địa đã không đồng lòng phê chuẩn.

Rồi chiến tranh đã khiến Franklin phải chú ý đến phạm vi quân sự. Đầu năm 1755, Tướng Edward Braddock và hai trung đoàn quân Anh tới Bắc Mỹ với lệnh chiếm lại căn cứ của người Pháp tại Fort Duquesne, là nơi hội tụ của hai giòng sông Allegheny và Monogahela. Đội quân Anh đã gặp khó khăn trong việc tìm mua ngựa và các toa xe. Franklin đã giúp công vào việc trang bị này. Nhưng rồi quân Pháp và dân da đỏ đã phục kích đoàn quân Anh tại các bờ sông Monogahela và tướng Braddock tử trận, đoàn quân Anh hầu như bị tiêu diệt. Lúc này, Franklin đã lo việc thành lập đội quân tình nguyện địa phương để bảo vệ các thành phố biên giới, ông được đề cử làm Đại Tá quân đội để chống nhau với người Pháp và dân da đỏ. Ông cũng là người đã trông coi xây dựng một pháo đài tại Weissport thuộc Carbon County, Pennsylvania.

Năm 50 tuổi, Franklin đựơc đề cử làm ủy viên quân sự của địa hạt Northampton. Ngoài ra, ông còn được bầu làm Hội Viên Danh Dự của Hội Triết Học Edinburg và nhân viên Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc, một danh dự ít khi dành cho một người sống tại xứ thuộc địa. Chính khách nổi tiếng người Anh thời đó là William Pitt đã nói trước Viện Quý Tộc Anh (the House of Lords) rằng Benjamin Franklin là một nhà khoa học đáng được xếp ngang hàng với Isaac Newton. Oâng ta đã ca tụng Franklin là "một Danh Dự không chỉ dành cho nước Anh mà còn cho bản chất của con người" (an honor not to the English nation only but to human nature).


4- Nhà Ngoại Giao.

Cuộc chiến tranh với nước Pháp đã khiến cho Anh Quốc phải chi tiêu quá nhiều. Anh Quốc liền bắt các xứ thuộc địa phải gánh thêm phí tổn. Tất cả các đất đai đều phải chịu thuế. Vì vậy Nghị Viện Philadelphia liền cử Franklin sang nước Anh năm 1757. Tới London, khi xin bãi bỏ thuế không được, Franklin liền đưa ra một đề nghị theo đó các đất đai chưa đo đạc được miễn thuế. Đề nghị căn cứ trên sự công bằng của ông đã được phê chuẩn. Đây là thắng lợi đầu tiên của ông tại nước ngoài. Franklin đã ở Anh Quốc và hoạt động như một đại sứ không chính thức và cũng là người phát biểu các quan điểm của lục địa châu Mỹ.

Đầu năm 1760, sau khi cuộc chiến tranh với người Pháp và dân da đỏ chấm dứt, đã có một cuộc tranh luận lớn lao tại nước Anh. Người Pháp bị thất trận nên đã bằng lòng nhường lại cho nước Anh hoặc là một tỉnh thuộc Canada, hoặc là hòn đảo Guadeloupe trong quần đảo Tây Aán (West Indies). Vào lúc cao điểm của cuộc tranh luận, Franklin đã cho phổ biến một tập sách mỏng so sánh một cách sáng suốt tương lai vô bờ của xứ Canada so với sự không quan trọng của hòn đảo Guadeloupe. Việc làm này đã khiến cho tại châu Aâu và châu Mỹ, nhiều người đã đọc kỹ tập sách của Franklin. Vài sử gia tin rằng do ảnh hưởng của tập sách này mà nước Anh đã chọn Canada.

Mùa hè năm 1762, Franklin trở về Bắc Mỹ. Ông được hoan hô nhiệt liệt và được bầu vào Nghị Viện Philadelphia. Vài năm sau Franklin lại sang nước Anh để tranh đấu cho việc ký kết văn kiện về Bưu Điện. Vào ngày 13 tháng 2 năm 1766, Franklin ra trước Hạ Viện Anh (the House of Commons) để trả lời 174 câu hỏi liên quan tới việc "đánh thuế mà không có đại diện". Các nghị viên Hạ Viện Anh đã chất vấn ông trong gần hai giờ và ông đã trả lời vừa vắn tắt, vừa rõ ràng. Kiến thức về các vấn đề đánh thuế của ông đã làm cho mọi người phải ngạc nhiên và danh tiếng của ông vì thế đã vang lừng khắp châu Aâu. Đạo luật về Tem Thuế (the Stamp Act) đã bị hủy bỏ sau đó và phần lớn công lao là của ông. Franklin đã là một người không những chỉ tranh đấu cho riêng miền Pennsylvania mà còn cho cả châu Mỹ.

Vào năm 60 tuổi, Franklin được bầu làm hội viên ngoại quốc của Hội Khoa Học Đức Quốc tại Gottingen, và Hàn Lâm Viện Pháp Quốc chọn ông làm một trong 8 hội viên nước ngoài, lúc đó ông 66 tuổi.

Khi các liên lạc chính trị giữa Anh Quốc và các thuộc địa trở nên xấu đi, Franklin vẫn muốn các thuộc địa châu Mỹ nằm trong đế quốc Anh nếu các quyền lợi của người dân thuộc địa được tôn trọng và bảo vệ. Ông sẵn sàng dùng tài sản của mình để bồi thường cho số trà bị phá hủy tại Boston (the Boston Tea Party) nếu chính quyền Anh hủy bỏ các thuế trà không công bằng. Nhưng người Anh đã làm ngơ trước đề nghị của ông, vì thế ông thấy mình không còn hữu ích nữa và ngày 21 tháng 3 năm 1775, Franklin buồn bã xuống tầu trở về châu Mỹ. Ông đã làm đủ mọi cách để giữ cho các thuộc địa châu Mỹ nằm trong đế quốc Anh trên căn bản thiện chí và tôn trọng lẫn nhau.

Franklin về tới Philadelphia vào ngày 5 tháng 5 năm 1775, vào khoảng hai tuần lễ sau khi cuộc chiến tranh Cách Mạng bắt đầu. Ngày hôm sau, dân chúng Philadelphia đã chọn ông làm đại biểu phục vụ trong Quốc Hội Lục Địa Kỳ II (the Second Continental Congress). Ông Franklin ít khi tuyên bố tại Quốc Hội song ông là một trong các nhân vật tích cực và có ảnh hưởng nhất. Ông đã đề nghị Chương Trình Liên Bang (Plan of Union) trong đó có chứa đựng các ý tưởng căn bản dùng cho các điều khoản của Liên Bang Bắc Mỹ (Confederation). Franklin cũng giúp việc trong một ủy ban đi qua Canada để thuyết phục người Pháp tại đó tham gia vào cuộc chiến tranh Cách Mạng nhưng cuộc vận động này không thành.

Năm 1776, Benjamin Franklin được đề cử cùng với Thomas Jefferson và John Adams thảo ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và ông cũng là một trong các nhân vật ký tên vào bản văn quan trọng này. Lúc bấy giờ, cuộc chiến tranh với người Anh chưa mang lại các thành quả tốt đẹp và vì Quốc Hội cho rằng việc đồng minh với nước Pháp có thể đưa tới thắng lợi nên Quốc Hội đã đề cử Franklin làm một trong ba ủy viên đại diện cho Hoa Kỳ tại nước Pháp. Cuối năm 1776, ở tuổi 70, Benjamin Franklin đã lãnh một nhiệm vụ quan trọng nhất trong đời ông. Oâng đã tới đất Pháp và được chào đón nồng nhiệt. Dân chúng Pháp đã mến phục ông vì lòng tử tế, cách phục sức đơn giản, cử chỉ bình dị, trí óc khôn ngoan và các lời nói sáng suốt cũng như cách đối xử lịch thiệp với cả giới quý tộc lẫn giai cấp bình dân. Các đám đông đã đi theo ông trên đường phố. Các nhà thơ đã làm các bài ca tụng ông. Chân dung và tượng của ông được đặt tại nhiều nơi.

Mặc dù có tình cảm với ông Benjamin Franklin nhưng chính quyền Pháp thời đó còn rất do dự trong việc ký hiệp ước đồng minh với các thuộc địa Bắc Mỹ, vì một việc làm như vậy sẽ dẫn đến cuộc chiến tranh giữa nước Pháp và nước Anh. Tuy nhiên, với sự lịch thiệp, tài khôn khéo và tính kiên nhẫn, Franklin đã lấy dần được lòng tin tưởng của nước Pháp. Và cuối cùng vận may của ông đã tới khi đội quân Anh của Tướng John Burgoyne đầu hàng tại Saratoga. Thắng lợi của người Mỹ đã khiến cho nước Pháp ký kết hiệp ước đồng minh vào ngày 6 tháng 2 năm 1778. Sau đó, Franklin đã xếp đặt việc chuyên chở các sĩ quan, binh lính Pháp và súng đạn qua Bắc Mỹ. Franklin cũng mượn được tiền vay và xin được tiền tặng chuyển về cho Hoa Kỳ. Nhiều sử gia cho rằng nếu không có Benjamin Franklin, người Mỹ chưa chắc đã giành được độc lập.

Năm 1778, Benjamin Franklin được chỉ định làm bộ trưởng tại Pháp. Ông đã giúp công vào việc soạn thảo Hiệp Ước Paris là thứ đã làm chấm dứt cuộc chiến tranh Cách Mạng. Hiệp ước này đã hứa dành cho quốc gia non trẻ Hoa Kỳ mọi thứ cần thiết và Franklin đã là một trong các nhân vật ký nhận Hiệp Ước Paris vào năm 1783, và từ hiệp ước này, nền độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được công nhận.

Từ năm 1776 tới năm 1785, Franklin sống ở ngoại quốc và luôn luôn mang thắng lợi về cho đất nước. Ngoài ra, các vinh dự vẫn tới tấp đến với ông. Hàn Lâm Viện Y Học Paris mời ông làm hội viên. Ông cũng là nhân viên của Hàn Lâm Viện Mỹ Thuật và Khoa Học Boston, là một trong 24 nhân viên ngoại quốc của Hàn Lâm Viện Khoa Học, Văn Chương và Mỹ Thuật Padoue, hội viên Hàn Lâm Viện Lịch Sử Madrid, hội viên danh dự Hội Văn Chương và Triết Học Manchester cũng như tại Hội Vật Lý, Vạn Vật và Mỹ Thuật Orleans, tại Hàn Lâm Viện Khoa Học, Mỹ Tự và Mỹ Thuật Lyons. Hơn nữa, các tác phẩm của ông in tại các nước Anh, Đức, Pháp, Ý đã mang lại cho ông các danh vọng vô bờ.


5- Nhà Lập Quốc.

Năm 1785, Benjamin Franklin trở lại Philadelphia và được cử làm chủ tịch của Hội Đồng thành phố này, rồi lại được bầu làm Thống Đốc Tiểu Bang Pennsylvania. Ông được bầu lại vào chức vụ sau này vào những năm 1786 và 1787. Ngoài ra, Franklin còn có công trong việc phản kháng chế độ nô lệ tại châu Mỹ.

Năm 80 tuổi, Franklin vẫn còn hoạt động. Hồi đó các tầu biển chạy từ Falmouth ở nước Anh tới New York mất hai tuần lễ lâu hơn nếu không theo con đường London-Rhode Island. Các chủ tầu không biết tại sao như vậy, và đã đề nghị chỉ cho tầu đến Rhode Island mà không tới New York trong khi 2 nơi này chỉ cách nhau một ngày đường. Nhiều người đã cầu cứu đến Franklin. Ông liền tìm gặp các thuyền trưởng nên được biết rằng có một dòng nước chảy từ mạn dưới lên mà người ta chưa được biết rõ lắm, đó là dòng Gulf Stream. Franklin liền nghiên cứu dòng nước này : nào đo bề rộng, chiều sâu, đo nhiệt độ, sức chảy… Franklin khuyên các tầu bè nên lợi dụng dòng nước để cuộc hành trình được nhanh chóng hơn.

Năm 1787, xứ Pennsylvania đã đề cử Benjamin Franklin, 81 tuổi, tới họp Hội Nghị Lập Hiến (Constitutional Convention). Các đại biểu đã gặp nhau tại Sảnh Đường Độc Lập và thảo ra Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Vào lúc này, Franklin là đại biểu cao tuổi nhất của Hội Nghị. Sức khỏe yếu kém và tuổi cao đã không cho phép ông tích cực tham gia vào các hoạt động nhưng sự khôn ngoan, hiểu biết của ông đã giúp cho Hội Nghị tiến hành. Franklin đã dàn xếp được các cuộc tranh luận về quyền đại biểu tại Quốc Hội của các tiểu bang lớn và nhỏ. Sự dung hòa của ông đã là nguyên do thành lập một quốc hội lưỡng viện.

Dịp tham dự Hội Nghị Lập Hiến là lần phục vụ công ích cuối cùng của ông, song tuy cao tuổi, ông vẫn quan tâm tới các công việc quốc gia. Ông rất sung sướng khi thấy ông George Washington nhậm chức Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Ông đã hi vọng rằng gương mẫu của Hiệp Chủng Quốc Bắc Mỹ có thể dẫn tới một hiệp chủng quốc khác tại châu Âu.

Benjamin Franklin qua đời tại Philadelphia vào đêm 17 tháng 4 năm 1790 vì bị sưng phổi, thọ 84 tuổi. Vào khoảng 20 ngàn người đã tôn kính ông trong buổi tang lễ. Ông được chôn trong nghĩa địa của nhà thờ Christ Church tại Philadelphia, bên cạnh vợ ông chết năm 1774.

Benjamin Franklin được kể là một trong 6 công dân hàng đầu của nước Mỹ. Chân dung của ông xuất hiện trên các tem thư, tiền đồng và tiền giấy của Hoa Kỳ. Hai tổng thống Hoa Kỳ đã hãnh diện mang tên của ông: Franklin Pierce và Franklin D. Roosevelt. Thành phố Philadelphia cũng tưởng nhớ người Công Dân lừng danh nhất. Một sân vận động của Đại Học Pennsylvania đã được đặt bằng tên của ông, ngoài ra còn có Công Viên Franklin, Viện Franklin với bức tượng tạc ra do nhà điêu khắc James Earl Frase.

Vào năm 1790, khi được tin ông Benjamin Franklin qua đời, Quốc Hội nước Pháp quyết định để tang ba ngày và Bá Tước Honoré de Mirabeau đã ca tụng "Nhà Hiền Triết mà cả hai lục địa đều cho là của mình" (the sage whom two worlds claims as their owns). Còn Quốc Hội Hoa Kỳ chịu tang một tháng để tỏ lòng kính cẩn một Công Dân đã có công lớn đối với Quốc Gia, với Khoa Học, với Tự Do và với Nhân Loại.

Vietsciences-Phạm Văn Tuấn 

Thursday, August 23, 2012

[Phát minh] Bếp điện ứng từ

Thiết bị này sẽ giúp các bà nội trợ nấu nướng sạch sẽ, không khói, tránh gây cháy và nấu chín thức ăn rất nhanh so với loại bếp khác. Bếp có độ bền cao do sử dụng vật liệu tốt, hệ thống kiểm soát nhiệt độ khá chính xác, an toàn. Có thể lau chùi mặt bếp ngay khi nấu.
Xem thêm: Phát minh vĩ đại khác

Loại bếp này áp dụng hiện tượng cảm điện từ do Faraday khám phá ra năm 1830 nhưng đến 150 năm sau các chuyên viên nghiên cứu nhóm Thomsom mới có ý định dùng cách thức này. Năm 1976 các kỹ sư hãng Thomson đã có hàng nguyên mẫu loại này nhưng đồ điện tử lúc bấy giờ đắt nên phải đợi đến năm 1982 , nhóm Thomson ở Villingen (Ðức) đã trở lại nghiên cứu và năm 1988 Bonnet bán ra cho các đầu bếp chuyên môn rồi đến năm 1991 thì Sauter bán ra cho mọi người.
Ðặt một nồi nước trên lò điện ứng: nước sôi mau hơn. Ðể miếng giẻ dưới nồi: nước sôi mà giẻ không cháy...

Quấn sợi dây đồng quanh thỏi kim loại và nối hai đầu sợi dây đồng tới một bộ pin, ta được một nam châm điện. Ngược lại, một nam châm được bao bởi cuộn dây đồng, khi một trong hai vật này di chuyển, sẽ tạo năng lượng. Áp dụng nhiều và rõ ràng nhất hiện tượng này là máy phát điện, cho xe đạp hay trung tâm sản xuất điện. Ðương nhiên năng lượng sẽ tạo ra nhiệt.

Với dòng cảm ứng điện từ , ta không những muốn dùng độ nóng của nó phát ra mà còn muốn tăng độ nóng nữa. Hiện tượng tỏa nhiệt này do dòng Foucault. Dòng điện từ này có được trong những khối kim loại dẫn điện, dưới ảnh hưởng do sự thay đổi liên tục của từ trường, chúng sẽ tạo ra sự gia tăng nhiệt độ, đặc biệt với tần số cao.

Sự chế tạo bếp điện cảm ứng vận dụng cuộn dây, từ trường và dòng Foucault. Nguyên tắc dựa vào sự xếp đặt cuộn dây dưới một tấm vitroceramic. Khi cho điện vào sẽ tạo ngay tức thời từ trường. Chất vitroceramic không góp phần gì trong nguyên tắc này mà chỉ để giúp cho rửa dễ dàng.

Từ trường không tạo ra khi không có dòng điện đi qua nên nó chỉ sinh ra khi nồi được đặt trên bếp với điều kiện là nồi làm bằng vật liệu thích đáng: kim loại đặc và nhiễm từ. Khi ta đặt nồi trong vùng từ trường, dòng Foucault tự động tạo ra: Những âm điện tử hoạt động. Âm điện tử càng hoạt động mạnh thì năng lượng càng tăng và nhiệt lượng sẽ tác dụng lên nồi. Nhiệt lượng phát ra được kiểm soát bằng sự biến đổi từ trường, biên độ, tần số...

Dòng điện hai chiều ta thường dùng là 50 Hz . Ta có thể tăng tần số này bằng cách dùng một máy biến đồi. Thí dụ trường hợp này dòng điện có tần số 20.000 Hz. Tuy nhiên ta không thể tăng hơn giá trị này bởi đến một mức, sẽ tự tạo năng lượng chống lại do "tác dụng Skin"

Huỳnh Nhật Thanh - Vietsciences

Wednesday, August 22, 2012

Thomas Jefferson và tác giả bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập Hoa Kỳ


Thomas Jefferson (1743 - 1826), tác giả bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập Hoa Kỳ

Ông Thomas Jefferson là một nhà ngoại giao, một nhà lý thuyết chính trị, vị sáng lập ra Đảng Dân Chủ Hoa Kỳ nhưng ông được ghi nhớ do chức vụ Tổng Thống thứ ba của Hoa Kỳ và ông cũng là tác giả “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập”.
Ông Thomas Jefferson đã tin tưởng rằng “những người nào chịu khó lao động trên mặt đất là những người được Thượng Đế chọn lựa”. Xã hội lý tưởng của ông vào thời đại đó là một quốc gia gồm các chủ trại sinh hoạt dưới sự kiểm soát tối thiểu của chính quyền.

Ông Thomas Jefferson tin tưởng rằng đa số người dân có thể tự quản và nên giữ cho chính quyền vừa đơn giản, vừa ít phí phạm. Do lòng yêu chuộng Tự Do, ông đã tranh đấu cho các nền tự do ngôn luận, báo chí, tôn giáo và các tự do dân sự khác. Ông mạnh dạn ủng hộ việc thêm vào Hiến Pháp Hoa Kỳ đạo luật Dân Quyền (the Bill of Rights).
Trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông Jefferson, lãnh thổ Hoa Kỳ đã tăng gấp hai diện tích nhờ mua lại vùng đất Louisiana và Hoa Kỳ đã ở vị thế trung lập trong khi các đạo quân của Napoléon đánh chiếm nhiều nơi tại châu Âu.
Ông Thomas Jefferson còn có nhiều tài năng đặc biệt khác. Ông là một trong các vị kiến trúc sư hàng đầu của thời đại. Chính ông vẽ kiểu cho Điện Capitol của thủ phủ tiểu bang Virginia, vẽ đồ án cho trường Đại Học UVA (University of Virginia) và họa đồ tòa dinh thự Monticello của ông.

Ông cũng chơi giỏi đàn vĩ cầm trong các ban nhạc thính phòng và do quý trọng bộ môn Hội Họa, ông đã thu xếp để nhà điêu khắc lừng danh người Pháp Jean Houdon tới Hoa Kỳ nặn tượng cho ông George Washington.

Ngoài ra ông Thomas Jefferson còn là Chủ Tịch của Hội Triết Học Mỹ Quốc (the American Philosophical Society), một tổ chức bao gồm nhiều công cuộc khảo cứu Khoa Học và Văn Hóa. Bộ sưu tập 6,400 cuốn sách của ông đã là phần chính của Thư Viện Quốc Hội thời đó.
Ông Thomas Jefferson là một luật gia xuất sắc, đã đề nghị nhiều đạo luật hữu ích, viết ra nhiều tác phẩm với tinh thần của một công dân cởi mở, thực tiễn, hướng về đại chúng. Chính nhờ ông mà hiện nay tại Hoa Kỳ, hệ thống tiền tệ theo cách tính thập phân được sử dụng.

Ngày nay, mọi công dân Hoa Kỳ thụ hưởng được rất nhiều điều tốt lành phần lớn là do lòng tận tụy của ông Thomas Jefferson đối với các nhân quyền (human rights). Chính ông Thomas Jefferson đã hoạch định một loại chính quyền mà 37 năm về sau, trong bài Diễn Văn tại Gettysburg, ông Abraham Lincoln đã mô tả chính quyền Hoa Kỳ phải là “của Dân, do Dân và vì Dân”.


1- Thuở thiếu thời tại Virginia.
Cậu Thomas Jefferson chào đời ngày 13 tháng 4 năm 1743 tại Shadwell, một miền đất đỏ phía tây của hạt Albemarle, Virginia, gần ngọn đồi mà sau này có tòa nhà Monticello. Cha của cậu, ông Peter Jefferson, là một người đo đất có gốc tổ tiên miền Welsh, còn bà mẹ, Jane Randolph, thuộc một gia đình quý tộc cổ của miền Virginia. Thomas là người con thứ ba và là con trai lớn của gia đình gồm 4 trai 6 gái. Phần lớn những người anh chị em này đã chết khi tuổi còn thơ. Thomas đã trải qua 7 năm trong số 9 năm đầu tiên tại Tuckahoe, một nông trại của gia đình Randolph bên bờ sông James, gần Richmond, tiểu bang Virginia.

Năm Thomas lên 9 tuổi, gia đình Jefferson dọn trở về Shadwell và tại nơi này, cậu Thomas đã tập đọc và tập viết tại trường học và cậu cũng được cha dạy kèm. Ông Peter đã dạy cho con học cách câu cá, cách săn bắn gà lôi rừng (wild turkeys), săn hươu nai gần dòng sông Rivanna cùng cách cưỡi ngựa. Cậu Thomas cũng học kéo đàn vĩ cầm và biết yêu chuộng âm nhạc từ dạo đó.

Khi Thomas được 14 tuổi, ông Peter qua đời. Cậu Thomas trở nên gia trưởng vì là con rai lớn trong nhà. Cậu thừa hưởng hơn 1,000 mẫu đất cùng với hơn 20 người nô lệ, trong khi gia sản do người quản gia tên là John Harvie trông nom.


2- Học vấn.
Cậu Thomas Jefferson bắt đầu đi học từ khi được 5 tuổi rồi khi lên 9 tuổi, vào ở nội trú trong trường học điều khiển do Mục Sư William Douglas, một vị tu sĩ gốc Tô Cách Lan. Về sau, cậu Thomas còn ghi nhớ rằng các loại bánh nướng trái cây (pies) của ông Douglas ngon tuyệt vời và các bài giảng của ông cũng rất xuất sắc, ngoại trừ về văn học cổ điển.

Ngoài các môn học thông thường, cậu Thomas còn được học về tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp. Sau khi cha chết, Thomas theo học ngôi trường gần Charlottesville của Mục Sư James Maury, một tu sĩ theo Anh Cát Giáo và cũng là một học giả. Cậu được huấn luyện về lòng nhân đạo và về niềm tin vào Thượng Đế nhưng cậu không hoàn toàn tin tưởng vào một tổ chức tôn giáo nào.

Năm 1760, vào tuổi 16, Thomas Jefferson theo học Đại Học Williams and Mary tại Williamsburg. Đây là thủ đô của miền thuộc địa Virginia với dân số thời đó chỉ vào khoảng 1,000 người. Thomas làm quen với xã hội thành thị và trong 2 năm trường, cậu học về Toán học, Văn chương và Triết học với Tiến Sĩ William Small, một học giả gốc Tô Cách Lan. Năm 1762, Tiến Sĩ Small đã thu xếp để Thomas Jefferson học luật với vị Thẩm Phán George Wythe, một trong các vị luật gia uyên thâm nhất của địa phương. Ông George Wythe đã gây ảnh hưởng tới Thomas Jefferson rất nhiều và chính ông Wythe sau này cũng là một trong các vị ký tên vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.

Nhờ sự quen biết với hai ông Small và Wythe, Thomas Jefferson được giới thiệu với Thống Đốc Francis Fauquier. Bốn người này thường trải qua các buổi chiều tại tư dinh của Thống Đốc, bàn luận về thời cuộc cũng như dạo các bản nhạc thính phòng. Cũng nhân dịp này, Thomas Jefferson được gặp Patrick Henry.

Trong thời gian học môn Luật với Thẩm Phán Wythe, Thomas Jefferson đã quan tâm tới sự căng thẳng chính trị giữa nước Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ. Cuộc chiến tranh Bẩy Năm (1756-63), hay còn được gọi là cuộc chiến tranh Pháp và người Da Đỏ (the French and Indian War) đã loại người Pháp ra khỏi nước Ấn Độ và lục địa Bắc Mỹ. Người Pháp đã bị người Anh thay thế và thế lực Anh đã lấn át tại phía tây bán cầu và trên các mặt biển. Nước Anh nhờ thế đã thụ hưởng được sự phát triển thương mại trên rất nhiều lãnh thổ. Năm 1760, Vua George III lên ngôi nhưng do sự bất lực của nhà Vua này, đã sinh ra các bất ổn đối với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.

Tại miền Bắc Mỹ, các doanh nhân thường buôn lậu với các kẻ địch và các quốc hội lục địa đã không cung cấp nhân lực và tiếp liệu cho chính quyền Anh trong khi số nợ nần của nước Anh đã tăng lên do việc quản trị các vùng đất mới. Để có tiền, Quốc Hội nước Anh đã thông qua Đạo Luật Tem Thuế (the Stamp Act) vào tháng 3-1765 để gia tăng lợi tức cho nước Anh. Khi đạo luật này được công bố, Thomas Jefferson đã được nghe Patrick Henry dùng lời hùng biện, đả kích sự bất công và cho rằng Quốc Hội Anh không có quyền đánh thuế các thuộc địa Bắc Mỹ. Sau này, Thomas đã kể lại rằng: “Đối với tôi, ông Henry đã nói hùng hồn giống như Thi Hào Homer đã làm thơ vậy”.

Năm 1767, Thomas Jefferson được nhận vào Luật Sư Đoàn và bắt đầu hành nghề luật sư một cách khá thành công. Ông đã chia thời gian qua lại hai địa điểm là Williamsburg và Shadwell. Tại nơi sau này, ông đã vẽ kiểu và trông coi xây dựng tòa nhà Monticello trên một ngọn đồi gần đó.

Thomas Jefferson cưới bà góa phụ Martha Wayles Skelton năm 1772. Bà này là con gái của ông John Wayles, một luật sư danh tiếng sống gần Williamsburg. Theo chuyện kể lại, chính nhờ âm nhạc mà ông Thomas đã chiếm được cảm tình của bà Martha vì một nhân vật khác cũng theo đuổi bà Martha đã phải bỏ cuộc khi nhìn thấy hai người hòa đàn vĩ cầm và dương cầm (harpsicord). Sau đó, gia đình Jefferson đã an cư tại Monticello, dù cho tòa nhà lớn này chưa xây xong. Họ có 1 con trai và 5 con gái nhưng chỉ có hai người con gái sống nổi tới tuổi trưởng thành là Martha (1772-1836) và Mary (1778-1804). Bà Martha Jefferson qua đời năm 1782, sau 10 năm kết hôn. Ông Thomas Jefferson đã không lập gia đình nữa mà lo chăm sóc hai người con gái.


3- Nhà chính trị thuộc địa.
Tháng 5 năm 1769, ông Thomas Jefferson được bầu vào Viện Lập Pháp xứ Virginia (the House of Burgesses) và đã phục vụ tại nơi này cho tới năm 1775. Ông Jefferson không phải là một nhà hùng biện nhưng đã tỏ ra là một nhà viết luật nhiều khả năng, với biệt tài dùng tiếng Anh vừa đơn giản, vừa rõ ràng mà các nhà lập pháp khác có kinh nghiệm cũng phải sớm công nhận.

Trong các năm còn trẻ, Thomas Jefferson đã thừa hưởng đất đai của cha để lại, gồm các miền đồi núi Piedmond thuộc xứ Virginia và do đó, đã liên lạc thường xuyên với các người quý tộc Tidewater và được chấp nhận vào giai cấp này, nhưng tư tưởng chính trị của ông Jefferson lại thiên về những người di dân gốc Đức, Ái Nhĩ Lan và Tô Cách Lan, là những kẻ khai phá các miền đất hoang thành những nông trại nhỏ. Tới khi được bầu vào Viện Lập Pháp Virginia, ông Jefferson là nhân viên trong nhóm chính trị gia gồm Patrick Henry, Richard Henry Lee và Francis Lightfoot Lee. Những nhân vật này thường tranh cãi với các nhà quý tộc Tidewater trong các buổi thảo luận về các vấn đề giữa nước Anh với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.

Vào các năm về trước, việc chống đối đạo luật Tem Thuế tại các xứ thuộc địa đã khiến cho các vấn đề tài chính của nước Anh không giải quyết được. Vì vậy vào năm 1767, do sự thúc giục của Giám Đốc Ngân Quỹ Charles Townshend, Đạo Luật Townshend đã được thông qua theo đó thuế được đánh lên các món hàng như trà, giấy, thủy tinh, chì, sơn mà người thuộc địa Bắc Mỹ phải nhập cảng từ nước Anh. Để họp bàn chống lại Đạo Luật Townshend, các người yêu nước xứ Virginia thường gặp nhau tại căn phòng Apollo của nhà hàng nổi danh Raleigh Tavern thuộc thành phố Williamsburg, họ chống lại đạo luật kể trên và chủ trương không nhập cảng hàng hóa từ nước Anh.

Năm 1774, việc tranh cãi với nước Anh lại dội lên. Ông Jefferson đã đứng đầu việc tổ chức chống nhập cảng và kêu gọi tất cả các xứ thuộc địa nên họp lại với nhau và cùng bày tỏ phản ứng. Ông được chọn làm đại biểu cho hạt (county) Albemarle tại Đại Hội Virginia lần thứ nhất, rồi từ đại hội này, các đại biểu của xứ Virginia được bầu ra để tham dự Quốc Hội Lục Địa thứ nhất, nhưng vì bị bệnh và không thể tham dự các buổi họp được, ông Thomas Jefferson đã gửi tới Đại Hội các bài viết nói rõ quan điểm của mình đối với cuộc khủng hoảng.

Thomas Jefferson đã lý luận rằng Quốc Hội Anh không có quyền kiểm soát các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Ông đã so sánh các người Anh đầu tiên định cư tại Mỹ Châu giống như những người Saxons đầu tiên tới nước Anh hàng trăm năm về trước, và những người Saxons này đã xuất phát từ miền đất mà ngày nay là nước Đức. Như vậy, các người định cư ban đầu khi tới châu Mỹ, đã dùng tới các quyền tự nhiên (their natural rights) của họ để di dân. Ông Jefferson cho rằng các thuộc địa hiện nay có thể trung thành với nhà Vua Anh vì họ được tự do lựa chọn sự trung thành đó. Vào thời bấy giờ, phần lớn các cư dân của xứ Virginia đã coi các quan điểm của ông Thomas Jefferson là thái quá. Các quan điểm này đã được in vào năm 1774 thành một tập sách mỏng có tên là “Quan điểm tóm lược về các quyền lợi của Bắc Mỹ thuộc Anh” (A Summary View of the Rights of British America).

Mùa xuân năm 1775, ông Thomas Jefferson tham dự Đại Hội Virginia thứ hai (the Second Virginia Convention). Đại Hội này đã chọn ông làm một trong các đại biểu để đi họp tại thành phố Philadelphia. Quốc Hội Virginia đã nhờ ông Jefferson trả lời một bức thư hòa bình của Lord North, vị Thủ Tướng Anh thời đó. Thủ Tướng North đã đề nghị rằng Quốc Hội Anh sẽ không đánh thuế các người định cư tại Bắc Mỹ nếu những người này chịu đánh thuế chính họ. Dù cho thư trả lời đã ôn hòa hơn là tập sách “Quan Điểm” nhưng ông Jefferson đã bác bỏ đề nghị của Thủ Tướng Anh và nhấn mạnh rằng một chính quyền phải được lập nên tại Bắc Mỹ cho các người thuộc địa và không phải cho người Anh. Sau đó, Quốc Hội Lục Địa đã chấp thuận bức thư của ông Jefferson gửi cho Thủ Tướng North.


4- Tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và nhà làm luật Virginia.

Tại Quốc Hội Lục Địa, ông Thomas Jefferson đã là một nhân vật dẫn đầu. Sau khi cuộc Chiến Tranh Cách Mạng xẩy ra, ông Jefferson được yêu cầu thảo ra “Bản Tuyên Bố các nguyên do và sự cần thiết phải cầm lấy võ khí” (a Declaration of the Causes and Necessity of Taking up Arms). Quốc Hội sau đó đã thấy rằng bản thảo này “quá mạnh” nên đã nhờ một nhân vật ôn hòa hơn là ông John Dickinson viết ra một bản thay thế nhưng văn bản mới gồm phần lớn các quan điểm của ông Jefferson.

Vào mùa xuân năm 1776, ý kiến của các đại biểu Quốc Hội Lục Địa càng nghiêng về nền Độc Lập của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Ngày 7 tháng 6 năm đó, Richard Henry Lee thuộc xứ Virginia đã đưa ra một bản nghị quyết nổi danh, đó là “Các Thuộc Địa Liên Hiệp này phải có quyền và phải là các xứ tự do và độc lập” (these United Colonies are, and of right ought to be, free and independent states). Sau đó, Quốc Hội Lục Địa đã chỉ định một ủy ban để soạn thảo ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ủy Ban này gồm: Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert Livingston. Ủy ban đồng thanh cử ông Jefferson viết ra bản thảo và đã đồng ý với rất ít thay đổi. Ngày 2 tháng 7, Quốc Hội Lục Địa bắt đầu tranh luận và Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được chấp thuận vào ngày 4 tháng 7 năm 1776.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là công trình lừng danh nhất của ông Thomas Jefferson. Bản văn đó đã diễn tả được tính hùng biện với lời văn mạnh mẽ theo pháp lý, biện hộ thế đứng của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Bản văn đó cũng xác nhận niềm tin vào các quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi người. Các ý tưởng này phần lớn không phải là mới lạ vì theo lời ông Jefferson, mục đích của ông là đặt lương tri của nhân loại vào việc cứu xét đề tài, bằng những lời văn vừa bình dị, vừa cương quyết khiến cho mọi người cùng đồng ý, và bản văn đó cũng là cách mô tả tinh thần độc lập của người Mỹ.

Tháng 9 năm 1776, ông Thomas Jefferson rời khỏi Quốc Hội Lục Địa và sau đó, lại phục vụ tại Viện Dân Biểu Virginia (the Virginia House of Delegates). Ông Jefferson tự nhận không có khả năng phục vụ Quân Đội trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, nhưng lại có thể trở thành một nhà làm luật hữu ích. Chỉ sau 5 ngày phục vụ trong ngành lập pháp, ông Jefferson đã bắt đầu một chương trình cải cách rộng lớn, đầu tiên liên quan tới việc phân phối đất đai.

Tại xứ Virginia, một số người giàu có đã chiếm giữ nô lệ và kiểm soát các vùng đất rộng lớn khiến cho việc phân phối đất đai không công bằng. Chính quyền thuộc địa địa phương lại hạn chế quyền bầu cử và giới hạn các cơ hội giáo dục. Ông Thomas Jefferson được bầu vào Hội Đồng Duyệt Xét (the Board of Revisors). Trong hai năm, ông đã xây dựng được một bộ luật mà ông hy vọng rằng sẽ xóa đi mọi cơ cấu quý tộc cổ xưa và tương lai, để đặt nền móng cho một chính phủ của nhân dân. Giai cấp quý tộc căn cứ vào tài sản và gia đình đã dần dần phải nhường chỗ cho “giai cấp quý tộc của tài năng và đức hạnh”, vì các đạo luật sau của ông Thomas Jefferson : (1) Đạo luật tiêu hủy luật giới hạn về thừa kế (the bill abolishing entails), (2) đạo luật tiêu hủy quyền thừa kế của con trưởng (the bill abolishing primogeniture), (3) đạo luật tự do tôn giáo (the statute for religious freedom) nhờ đó đã bảo đảm sự tự do trí tuệ và phân cách “nhà thờ” và “quốc gia”, hủy bỏ các đặc quyền của “nhà thờ Anh Cát Giáo” (the Anglican church), giới tu sĩ không còn được hưởng lương bổng của chính quyền và người dân Virginia không còn phải đóng thuế để yểm trợ nhà thờ nữa, (4) đạo luật về giáo dục tổng quát (the bill for general education) đã cho phép mọi người, bất kể tài sản hay nguồn gốc chủng tộc, đều được hưởng nền giáo dục miễn phí. Đạo luật về giáo dục này tuy chưa được thông qua ngay, nhưng đã là nền móng cho các hệ thống trường học công lập và thư viện miễn phí của Hoa Kỳ.

Vào các thập niên trước, chỉ những người có đất đai mới có quyền đi bầu cử nhưng nhờ các đạo luật do ông Jefferson đề xướng, các vùng đất rộng lớn được chia nhỏ ra, khiến cho nhiều người đã có đất canh tác và số người đi bầu cũng tăng lên. Ông Thomas Jefferson cũng đưa ra các đạo luật cho phép các di dân có được quốc tịch Mỹ sau khi đã sinh sống tại Virginia hai năm. Ngoài việc cứu xét lại hệ thống luật pháp của xứ Virginia và luật đất đai, ông Jefferson còn sửa đổi cả Hình Luật (Criminal Law). Ông Jefferson còn dự tính chấm dứt chế độ nô lệ nhưng ông đã không làm mạnh vì cho rằng người dân của xứ thuộc địa này chưa sẵn sàng với việc cải cách đó. Dù sao, ông Thomas Jefferson vẫn tin tưởng rằng chế độ nô lệ thì sai nhầm về luân lý và không thể tồn tại vĩnh viễn tại các xứ Bắc Mỹ.


5- Thống Đốc Tiểu Bang và Dân Biểu Quốc Hội.
Trong 2 năm 1779 và 1780, Quốc Hội xứ Virginia đã bầu ông Thomas Jefferson làm Thống Đốc tiểu bang 2 lần, mỗi nhiệm kỳ 1 năm. Trong thời gian nhậm chức của ông, xứ Virginia đã phải chịu đựng nhiều hậu quả nặng nề của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng. Theo lời yêu cầu của Tướng George Washington, ông Jefferson đã lấy bớt các tài nguyên và nhân lực bảo vệ xứ Virginia để dùng trợ giúp Quân Đội Cách Mạng và trong số các nhân vật tới Virginia tuyển quân, có ông James Monroe và cũng vì thế, hai ông Monroe và Jefferson đã trở nên đôi bạn lâu năm.

Năm 1781, các đoàn quân Anh đánh chiếm xứ Virginia. Miền này đã không thể chống cự được và chính ông Jefferson cũng suýt bị bắt vào ngày 4 tháng 6 năm đó, khi các đội quân của Tướng Banastre Tarleton càn quét miền Monticello. Ngày 2 tháng 6, nhiệm kỳ thống đốc của ông Jefferson chấm dứt. Ông Jefferson bị chỉ trích là đã không thể chống cự được Quân Đội Anh và sự việc này đã làm tổn thương danh dự của ông Jefferson trong nhiều năm, dù cho một cuộc điều tra về sau đã xóa đi sự kết tội này. Sau đó, ông Thomas Nelson Jr. là vị sĩ quan đứng đầu đoàn Dân Quân của xứ Virginia đã thay thế ông Jefferson làm Thống Đốc.

Ông Thomas Jefferson trở lại Monticello, lòng cay đắng và đã quyết định sẽ mãi mãi từ bỏ mọi công vụ. Ông bắt đầu viết tác phẩm: “Ghi chép về Tiểu Bang Virginia” (Notes on the State of Virginia, 1784-85). Đây là cuốn sách chứa đựng rất nhiều dữ kiện của xứ Virginia và nhiều niềm tin và lý tưởng của ông Jefferson.

Tháng 9 năm 1782, bà vợ Martha của ông Jefferson qua đời, đã khiến cho ông vừa điên dại, vừa rối trí. Trong nhiều tháng trường, ông Jefferson đã không cầm bút viết gì cả và nói chuyện với rất ít người quen. Ông đã nói với bạn bè về cái chết của vợ: "một sự kiện duy nhất đã xóa sạch mọi chương trình của tôi và đã đặt tôi vào một khoảng trống mà tôi không còn tinh thần nào để lấp đầy nữa".

Năm 1783, ông Thomas Jefferson được bầu vào Quốc Hội. Ông nhận nhiệm vụ này bởi vì ông cho rằng công vụ sẽ khiến cho tinh thần ông ra khỏi thảm kịch cá nhân. Trong thời gian làm việc tại Quốc Hội, ông Jefferson lại bận rộn với nhiều công việc làm luật nhưng lần này, trên tầm vóc quốc gia. Ông đã là chủ tịch của nhiều ủy ban. Ông đã viết ra nhiều bản phúc trình quan trọng như:

(1) Phúc trình về chính quyền dùng cho lãnh thổ phía Tây (On Government for the Western Territory): đây là tài liệu căn bản cho sự phát triển của Hoa Kỳ. Ngay từ đầu cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, nhiều xứ thuộc địa đã tranh giành các miền đất thuộc phía tây của rặng núi Appalachian. Dưới sự lãnh đạo của ông Thomas Jefferson, tiểu bang Virginia đã từ bỏ việc giành đất từ năm 1784 và các tiểu bang khác cũng noi theo, nhờ đó Lãnh Thổ Tây Bắc (the Northwest Territory) đã được tạo nên. Sau đó chính quyền đã gặp các vấn đề làm sao xếp đặt và quản trị miền đất mới. Quốc Hội Hoa Kỳ thời đó đã chỉ định hai ủy ban để cứu xét các vấn đề và ông Jefferson đã là chủ tịch của cả hai ủy ban. Năm 1784, ông Jefferson đệ trình một bản dự thảo về cách tổ chức hành chính của các miền đất phía tây theo đó, toàn vùng sẽ được phân chia thành nhiều tiểu bang mới, mỗi tiểu bang sẽ được chấp nhận vào Liên Bang theo căn bản hoàn toàn bình đẳng với 13 tiểu bang nguyên thủy.

(2) Nhận xét về cách thiết lập đơn vị tiền tệ (the Notes on the Establishment of the Money Unit): bản phúc trình này đã đưa tới việc chấp nhận hệ thống thập phân hiện nay của Hoa Kỳ, gồm các loại tiền xu bằng đồng, tiền hào (dime) bằng bạc và tiền Mỹ kim (dollar). Loại tiền 5 xu (nickel) và tiền 2 mỹ kim đã không thuộc đề nghị của ông Jefferson.

Ngoài ra còn có các đạo luật về đất đai năm 1784 và 1785 của ông Jefferson được dùng làm căn bản cho các chính sách đất đai sau này của Hoa Kỳ.


6- Bộ Trưởng tại Nước Pháp.

Vào tháng 5 năm 1784, Quốc Hội Hoa Kỳ đồng ý cử ông Thomas Jefferson qua nước Pháp để tham gia cùng các ông John Adams và Benjamin Franklin trong việc thương lượng các hiệp ước thương mại. Tới năm sau, do ông Franklin từ chức Bộ Trưởng tại Pháp, ông Jefferson được lên kế tiếp chức vụ. Về sự việc này, có người đã hỏi ông Jefferson: “Có phải Ngài đã thay thế ông Franklin không? ”, thì ông Jefferson đã trả lời bằng câu: “Thưa không, tôi kế tiếp ông ấy vì không có ai có thể thay thế ông Franklin”. Thực vậy, ông Thomas Jefferson đã là người theo rất gần các đường hướng của ông Benjamin Franklin đáng kính. Ông Jefferson đã lưu lại châu Âu cho tới mùa thu năm 1789 và đã khéo léo thi hành các phương pháp ngoại giao trong hòa bình.

Vào thời điểm này, nước Pháp đang sôi sục vì phong trào Cách Mạng. Các người cải cách đã coi ông Thomas Jefferson là một nhân vật dẫn đầu về Tự Do vì các bài viết chính trị và những cải tiến luật pháp của ông tại xứ Virginia. Hầu Tước De Lafayette, một người đã từng chiến đấu trong cuộc chiến giành Độc Lập của Hoa Kỳ, cũng như các người ôn hòa khác, thường xin các lời khuyên của ông Jefferson nhưng ông Jefferson đã cố gắng đứng ngoài nội tình chính trị của nước Pháp. Dù thế, ông vẫn thảo ra Bản Hiến chương các Dân Quyền (Charter of Rights) đệ trình lên Vua Pháp. Văn kiện này và các tài liệu khác của ông Jefferson đã nghiêng về đường lối ôn hòa bởi vì, mặc dù có cảm tình với cuộc Cách Mạng Pháp do những nguyên nhân tương tự như cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, ông Jefferson nhận thấy rằng đại chúng Pháp chưa sẵn sàng với một chính phủ có nhân dân đại diện giống như tại Hoa Kỳ.

Khi qua nước Pháp, ông Thomas Jefferson đã mang theo cô con gái Martha rồi tới năm 1787, cô Mary cũng sang theo. Cả hai cô con gái này đã theo học trường dòng tại Paris. Cũng trong thời gian phục vụ tại nước Pháp, ông Thomas Jefferson đã đi thăm nhiều nơi tại châu Âu và đã học hỏi được rất nhiều, nhất là về Canh Nông và Kiến Trúc. Ông đã quan tâm tới cách trồng lúa của người dân Ý và đã đưa lén hạt lúa giống về Hoa Kỳ để trồng tại hai xứ South Carolina và Georgia. Ông Jefferson cũng báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ biết về sự phát minh ra máy dập (a stamping press), loại máy có thể sản xuất hàng loạt các bộ phận cơ khí. Về kiến trúc, ông Jefferson đã nghiên cứu, tìm hiểu nhiều dinh thự trong đó có Tòa Nhà Maison Carrée tại Nimes, để sau này ông vẽ nên Điện Capitol Mới tại Richmond của tiểu bang Virginia.

Vì muốn làm ổn định các công việc tại Hoa Kỳ, ông Jefferson đã nộp đơn xin rời khỏi nước Pháp vào năm 1789 và ông đã xuống tầu về xứ vào tháng 10 năm đó.


7- Chính Khách của Hoa Kỳ.

Trong thời gian ông Thomas Jefferson công tác tại nước Pháp, mọi công dân Mỹ đều bận rộn với việc tổ chức chính quyền. Các nhà chính trị Bắc Mỹ đã hội họp vào năm 1787 và thảo ra Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ (the Constitution of the United States). Trong thời kỳ soạn thảo, ông James Madison, một người bạn, đã gửi tới ông Jefferson một bản thảo và tuy đồng ý với các điểm nêu ra trong bản thảo này, ông Jefferson đã nhấn mạnh rằng bản văn còn thiếu phần ghi các dân quyền. Sau khi Bản Hiến Pháp được đồng thanh chấp thuận, ông James Madison đã bổ túc bằng 10 tu chính án, văn kiện này về sau trở nên Đạo Luật Dân Quyền (the Bill of Rights).

Ông Thomas Jefferson cùng với hai cô con gái trở về Monticello, Virginia, trước lễ Giáng Sinh năm 1789, khi đó Bản Hiến Pháp đã được thông qua và Tổng Thống George Washington đang chờ đợi ông với chức vụ Bộ Trưởng Ngoại Giao trong Nội Các mới. Ông Jefferson đã nhận nhiệm vụ này sau một thời gian do dự.

Ông Thomas Jefferson đã là vị Bộ Trưởng Ngoại Giao đầu tiên của Hoa Kỳ và trong suốt thời gian tại chức, ông Jefferson đã là trung tâm của một cơn lốc chính trị vừa phức tạp, vừa cay đắng. Sự khác biệt về chính kiến đã xẩy ra giữa ông Jefferson và ông Hamilton, Bộ Trưởng Ngân Khố và về sau, với ông John Adams.

Ông Alexander Hamilton (1755-1804) sinh ngày 11-1-175l tại đảo Nevis, miền Tây Ấn thuộc Anh, với cha mẹ gốc Pháp và Tô Cách Lan. Khi được 15 tuổi, cậu Alexander được gửi theo học tại trường King's College (ngày nay là Đại Học Columbia). Ông Hamilton đầu quân vào đại đội Pháo Binh của tiểu bang New York, sớm mang lon Đại Úy rồi được giới thiệu với Tướng George Washington. Từ năm 1777 tới 1781, ông Alexander Hamilton đã phục vụ trong bộ tham mưu của Tướng George Washington với cấp bậc Trung Tá.

Trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, ông Hamilton chủ trương rằng quốc gia Hoa Kỳ cần phải có một chính quyền trung ương thật mạnh, được cai trị bởi những người quý tộc có nguồn gốc hoặc giàu có, hoặc gia thế, và ông tin tưởng rằng chế độ Quân Chủ giới hạn như của nước Anh là một hình thức chính quyền tốt đẹp nhất. Cùng với các ông James Madison và John Jay, ông Alexander Hamilton đã viết một loạt bài luận văn chính trị và ký tên là Nhóm Liên Bang (the Federalist). Các luận văn này ngày nay được coi là các bài bình luận cổ điển về Hiến Pháp (Federalist Papers). Ông Hamilton cũng đồng ý việc Quốc Hội nhận lãnh các món nợ nần của các tiểu bang trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng. Đề nghị này đã gây nên các phản đối mãnh liệt, nhất là tại tiểu bang Virginia và các tiểu bang phía nam, là các nơi đã trả hết nợ. Các tiểu bang này không muốn trả nợ giùm cho các địa phương khác.

Trái ngược với ông Alexander Hamilton thiên về chính quyền trung ương Liên Bang, ông Thomas Jefferson lại tin tưởng mãnh liệt vào quyền lợi của tiểu bang. Ông Hamilton thân Anh Quốc thì ông Jefferson lại ưa thích cuộc Cách Mạng Pháp. Ông Jefferson chống đối các chương trình nâng đỡ kỹ nghệ và vận chuyển đường biển của ông Hamilton vì ông muốn Hoa Kỳ là một quốc gia của các nhà nông. Đề nghị của ông Hamilton về Ngân Hàng Quốc Gia (national bank) cũng làm cho ông Jefferson lo ngại, cho rằng một ngân hàng như vậy sẽ đưa đến việc đầu cơ tài chính và làm tổn thương các quyền lợi của nông dân. Cuối cùng, Tổng Thống George Washington đã thiên về ý kiến của ông Hamilton và chấp thuận việc thành lập Ngân Hàng Quốc Gia.

Ông Jefferson đã làm phát triển lý thuyết “cấu tạo giới hạn” (strict construction) theo đó chính quyền trung ương chỉ nên có các quyền hạn được nói rõ trong Bản Hiến Pháp, trong khi ông Hamilton đáp lại bằng cách “cắt nghĩa rộng rãi” (loose interpretation) của Hiến Pháp theo đó những gì mà Hiến Pháp Hoa Kỳ không rõ ràng chối bỏ thì chính quyền trung ương có thể thi hành. Hai nhân vật trái ngược nhau này đã là các nhà lãnh đạo của hai đảng phái chính trị đầu tiên của Hoa Kỳ: đảng Liên Bang (the Federalists) theo các nguyên tắc của ông Hamilton và đảng Dân Chủ-Cộng Hòa (the Democratic Republicans) với ông Jefferson để rồi về sau trở thành đảng Dân Chủ ngày nay (the modern Democratic party).

Mặc dù các bất đồng và thù hận rõ ràng đối với ông Alexander Hamilton, ông Thomas Jefferson vẫn ở trong Nội Các cho tới cuối năm 1793 vì lòng trung thành đối với Tổng Thống George Washington.

Đối với các chính sách đối ngoại, Tổng Thống Washington thường ủng hộ đường lối của ông Jefferson nhưng lại muốn Hoa Kỳ đứng trung lập trong các cuộc tranh chấp giữa hai nước Anh và Pháp. Ông Jefferson về mặt đối ngoại cũng đã cố gắng vận động nước Anh từ bỏ các đồn lũy nằm trong Lãnh Thổ Tây Bắc, đồng thời với việc đòi hỏi lưu thông tự do dành cho các tầu thuyền trên dòng sông Mississippi.

Vào cuối nhiệm kỳ Tổng Thống thứ nhất của ông George Washington, ông Jefferson đã cùng các nhân vật nội các khác yêu cầu Tổng Thống Washington lãnh thêm một nhiệm kỳ thứ hai, trong khi nội tâm của ông lại quá chán nản với công việc hành chính và muốn vượt thoát ra khỏi “nghề làm chính trị đáng ghét”. Cuối cùng, ông Jefferson đã van nài được Tổng Thống Washington chấp thuận đơn xin từ chức của ông.

Tháng giêng năm 1794, ông Jefferson trở lại Monticello, hy vọng tìm lại hạnh phúc nơi các người bạn hàng xóm và sách vở, bận rộn với các công việc nông trại và có thời giờ sống cho mình. Nhưng cuộc sống ẩn dật này đã không kéo dài được lâu. Các người Dân Chủ-Cộng Hòa đã ủng hộ và đề nghị ông Thomas Jefferson làm ứng viên, ra tranh cử chức vụ Tổng Thống với ông John Adams, một ứng viên của đảng Liên Bang. Cuối cùng, ông Adams đã nhận được 71 phiếu cử tri và được bầu làm Tổng Thống. Ông Jefferson đứng thứ hai và theo luật lệ thời bấy giờ, đắc cử Phó Tổng Thống. Trong thời gian tại chức này, ông Jefferson đã không hoạt động tích cực được vì các nhân viên hành chính cao cấp phần lớn thuộc đảng Liên Bang. Ông Jefferson bèn tìm cách củng cố đảng Dân Chủ-Cộng Hòa và đã đạt được sự ủng hộ của các nông gia cỡ nhỏ, các người định cư biên giới và giới lao động miền Bắc. Liên lạc giữa hai ông Jefferson và ông Adams càng trở nên căng thẳng cho đến khi cả hai nhân vật này tuyệt giao với nhau vào năm 1800.

Trong thời gian làm Phó Tổng Thống và do chủ tọa Thượng Viện, ông Thomas Jefferson đã viết ra cuốn “Sách Hướng Dẫn các Thực Hành Nghị Viện” (Manual of Parliamentary Practice) mà ngày nay, Quốc Hội Hoa Kỳ còn sử dụng nhưng với hình thức đã được sửa đổi.

Vào nhiệm kỳ Tổng Thống của ông John Adams, đã có nhiều chỉ trích chính quyền từ các báo chí và các diễn giả. Để hạn chế các cuộc tấn công này, Quốc Hội Hoa Kỳ của thời đó đã thông qua vào năm 1798 bốn biện pháp gọi là “Các đạo luật ngoại kiều và chống nổi loạn” (the Alien and Sedition Acts). Các biện pháp này gồm : (1) Đạo luật quốc tịch (Naturalization act) : người ngoại quốc phải cư ngụ tại Hoa Kỳ đủ 14 năm mới được phép nhập tịch, (2) Đạo luật ngoại kiều (alien act) : cho Tổng Thống có quyền trục xuất các ngoại kiều nào bị xét là “nguy hiểm cho hòa bình và an ninh của Hoa Kỳ”, (3) Đạo luật ngoại kiều thù nghịch (alien enemies act, ngày nay còn áp dụng) : khiến cho các công dân của một quốc gia thù địch có thể bị trục xuất hay bị cầm tù trong thời chiến, (4) Đạo luật chống nổi loạn (sedition act) : cho phép kết án nặng nề các kẻ âm mưu hay có hành động chống chính quyền.

Tại khắp nơi, dân chúng đã lên tiếng phản đối các đạo luật kể trên vì các đạo luật này tước đi các tự do ngôn luận và báo chí, nhất là của đảng Dân Chủ-Cộng Hòa và ông Jefferson đã đứng đầu công cuộc chống đối các hạn chế đó. Ông Jefferson và ông James Madison đã bí mật giúp đỡ việc soạn thảo ra các “Nghị Quyết năm 1798” (the Resolutions of 1798) của các Viện Lập Pháp Virginia và Kentucky theo đó, các tiểu bang có quyền vô hiệu hóa các hành động của Liên Bang bị coi là vi hiến. Mục đích của các nghị quyết này là xét lại giá trị của các đạo luật đã được chính quyền Liên Bang thông qua để bảo vệ các quyền lợi của tiểu bang và duy trì các tự do cá nhân. 30 năm về sau, ông John Calhoun đã áp dụng quan điểm này vào lý thuyết vô hiệu hóa các đạo luật liên bang (theory of nullification of federal laws).


8- Tổng Thống thứ ba của Hoa Kỳ.

Năm 1800, các đảng viên đảng Dân Chủ-Cộng Hòa lại chỉ định ông Jefferson làm ứng viên Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Aaron Burr của tiểu bang New York làm ứng viên Phó Tổng Thống. Đảng Liên Bang tái đề cử Tổng Thống John Adams và chọn nhà ngoại giao Charles C. Pinckney của tiểu bang South Carolina đứng chung liên danh. Các đảng viên Liên Bang đã cảnh cáo dân chúng Mỹ rằng ông Jefferson là một nhà “cách mạng”, một kẻ vô chính phủ và một người không có đức tin. Một tu sĩ của miền Connecticut đã viết để ám chỉ ông Jefferson: “tôi không tin rằng Thượng Đế sẽ để một kẻ vô thần ngồi trên đầu của Quốc Gia”. Nhưng đảng Liên Bang đã chia rẽ nội bộ. Ông Hamilton đã cãi nhau với ông Adams và đã viết ra tập sách mỏng chỉ trích. Thêm vào đó là ảnh hưởng của đạo luật ngoại kiều và chống nổi loạn, tất cả đã làm lợi cho đảng Dân Chủ-Cộng Hòa.

Tới kỳ kiểm phiếu, ông Jefferson giành được 73 phiếu cử tri so với 65 phiếu của ông Adams. Các người thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã ăn mừng nhưng rồi họ lại sớm thất vọng khi biết tin mỗi cử tri Dân Chủ-Cộng Hòa đã bỏ một phiếu cho ông Jefferson và một phiếu cho ông Burr, như vậy hai ông này đã bằng phiếu nhau dù rằng ý định của cử tri đoàn là bầu ông Jefferson làm Tổng Thống. Tới lúc này, Viện Dân Biểu (the House of Representatives) phải đứng ra dàn xếp. Viện này lại gồm phần lớn những người thuộc đảng Liên Bang, họ ưa thích ông Burr hơn bởi vì họ cho rằng ông Burr dễ điều khiển hơn ông Jefferson. Nhưng ông Hamilton lại bất tín nhiệm ông Burr hơn là ông Jefferson, nên dùng ảnh hưởng khiến cho đa số đảng viên Liên Bang ủng hộ ông Jefferson. Cuộc bỏ phiếu cuối cùng diễn ra vào ngày 17-2-1801, đã khiến ông Burr trở thành Phó Tổng Thống. Về sau, đã có một tu chính án theo đó mọi cử tri trong cử tri đoàn phải bỏ một phiếu cho chức vụ Tổng Thống và một phiếu khác cho chức vụ Phó Tổng Thống.

Ông Thomas Jefferson là vị Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên được bầu trong cuộc tranh cử lưỡng đảng, vị đầu tiên tuyên thệ nhậm chức tại Thủ Đô D.C. và làm việc tại Tòa Bạch Cung (the White House). Trong bài diễn văn nhậm chức, ông Jefferson đã nói năng ôn hòa hơn lúc tranh cử. Ông tuyên bố rằng: "mọi khác biệt về ý kiến không phải là sự khác biệt về nguyên tắc" và sau một thời gian ngắn, các người thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã phải chấp nhận nhiều ý tưởng của các đảng viên Liên Bang.

Do không là một diễn giả hùng biện, ông Thomas Jefferson là vị Tổng Thống đầu tiên gửi Thông Điệp Hàng Năm (annual message) tới Quốc Hội, phương thức này đã được các Tổng Thống về sau noi theo cho tới năm 1913, khi Tổng Thống Woodrow Wilson lập lại thủ tục trình bày các vấn đề quốc gia trước Quốc Hội.

Sau lễ nhậm chức, ông Thomas Jefferson dọn vào “Tòa Nhà của Tổng Thống” (the President's House), nơi này được xây cất nhưng chưa xong hẳn. Ông Jefferson đã cảm thấy cô đơn trong một dinh thự mà theo lời ông mô tả là “một tòa nhà bằng đá, đủ lớn để chứa hai Hoàng Đế, một vị Giáo Hoàng và một vị Lạt Ma”. Do bà vợ Martha của ông Jefferson đã qua đời hơn 18 năm về trước, bà Martha Randolph, con gái của ông, đôi khi phải đóng vai bà chủ nhà trong các cuộc tiếp tân và người cháu của ông Jefferson tên là James Randolph đã là đứa bé đầu tiên chào đời tại nơi này. Công việc trong Tòa Nhà Trắng này thường phải nhờ tới bà Dolley Madison, bà vợ ông Bộ Trưởng Ngoại Giao.

Tại Tòa Bạch Cung, ông Thomas Jefferson đã giữ lại người đầu bếp gốc Pháp và cố gắng làm giản dị các nghi thức, cho phép các quan khách bắt tay Tổng Thống thay vì cúi đầu, và trong các bữa ăn, ông Jefferson đã dùng tới loại bàn tròn để mọi người đều cảm thấy quan trọng ngang nhau.

Khi nắm quyền hành Tổng Thống, ông Thomas Jefferson chủ trương rằng chính quyền Liên Bang nên đóng vai trò càng nhỏ càng hay và với sự giúp đỡ của Bộ Trưởng Ngân Khố Albert Gallatin, một chính sách kinh tế giới hạn được thi hành. Chính quyền giảm bớt các ngân khoản của các bộ sở, đặc biệt là của Lục Quân và Hải Quân.

Ông Thomas Jefferson cũng cho rằng các chức vụ liên bang nên được căn cứ vào sự xứng đáng (merit). Vì các văn phòng cao cấp đều do đảng viên Liên Bang nắm giữ, ông Jefferson đã thấy rằng “các chức vụ bỏ trống vì tử vong rất ít, còn vì từ chức thì không có”, nên ông Jefferson đã tìm cách loại ra một số người thuộc đảng Liên Bang và thường chỉ định người thay thế thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa khiến cho vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của ông, phần lớn các chức vụ quan trọng của Quốc Gia lại do đảng viên Dân Chủ-Cộng Hòa phụ trách. Điều này đã trở thành “hệ thống hư hỏng” (spoils system) và bị chỉ trích.

Trong thời gian làm Tổng Thống, ông Thomas Jefferson đã duyệt xét lại rất nhiều đạo luật, công bố nhiều tu chính án. Ông Jefferson cũng tìm cách kiểm soát Tối Cao Pháp Viện nhưng không thành công, trong khi đó Tối Cao Pháp Viện lại có thể tuyên bố một đạo luật đã được thông qua bởi Quốc Hội là vi hiến, điều này đã làm cho ngành Tư Pháp có thêm quyền hành, rồi các vụ truy tố quan tòa đã khiến cho về sau có quy định rằng các thay đổi chính trị sẽ không ảnh hưởng tới nhiệm kỳ của các vị thẩm phán.


9- Chiến tranh với Tripoli và việc bành trướng lãnh thổ.
Vào cuối thể kỷ 18, bọn cướp biển Barbary thuộc miền Bắc Phi thường hay tấn công các tầu buôn của nhiều quốc gia, đòi tiền chuộc hay tiền đóng góp. Trong vòng 10 năm, Hoa Kỳ đã phải nạp triều cống cho xứ Tripoli tới 2 triệu mỹ kim. Sự kiện này đã khiến ông Thomas Jefferson luôn nhắc nhở chính phủ Hoa Kỳ phải có các hành động trừng phạt các quân cướp biển. Năm 1801, Tripoli đánh phá các tầu buôn Hoa Kỳ để đòi thêm tiền. Hạm đội của Hoa Kỳ vào thời đó còn nhỏ và yếu, nhưng đã vây hãm các hải cảng của Tripoli, oanh tạc các pháo đài và bắt buộc các bọn cướp biển phải kính nể các tầu thuyền mang lá cờ Mỹ. Đây là cuộc chiến tranh đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ với một nước khác, tuy chưa mang lại các thắng lợi cụ thể vào thời gian đó, nhưng đã khiến cho uy tín của Hải Quân Hoa Kỳ được tăng thêm.

Ngay từ thời phục vụ tại Quốc Hội, ông Thomas Jefferson đã rất quan tâm tới vùng đất phía tây của dòng sông Mississippi. Vào đầu năm 1803, Tổng Thống Jefferson đã giành được một số tiền 2,500 mỹ kim của Quốc Hội để thám hiểm lãnh thổ trải dài từ miền đất Ohio tới tận bờ biển Thái Bình Dương.

Ông Jefferson đã chọn lựa người bí thư trẻ tuổi của ông là Đại Úy Meriweather Lewis đứng đầu công cuộc thám hiểm. Đại Úy Lewis lại mời một người bạn cộng tác là Trung Úy William Clark. Đây là hai sĩ quan đã quen thuộc với các sắc dân da đỏ và có nhiều kinh nghiệm tại các miền biên giới. Trước khi đoàn thám hiểm ra đi, có tin đồn rằng Vua Napoléon của nước Pháp đã bán cho Hoa Kỳ miền đất Louisiana bao la, vì thế cuộc thám hiểm này sẽ là tìm hiểu lãnh thổ của Hoa Kỳ.

Các kế hoạch thám hiểm đã được nghiên cứu kỹ. Đại Úy Lewis học cách vẽ bản đồ và cách xác định kinh tuyến và vĩ tuyến. Đoàn thám hiểm sẽ đi theo dòng sông Missouri tới tận ngọn, rồi băng qua Rặng Núi Phân Chia Lục Địa (the Continental Divide), sau đó men theo dòng sông Columbia tới cửa sông. Mùa đông năm 1803-04, đoàn thám hiểm tập họp tại Illinois, gần St. Louis, gồm hai nhà lãnh đạo là Lewis và Clark, 14 binh sĩ, 9 người dân biên giới từ Kentucky, hai người Pháp chèo thuyền và một anh hầu tên là York.

Ngày 14-5-1804, đoàn thám hiểm bắt đầu theo dòng sông Missouri, qua Iowa, tới vùng Yellowstone ngày 26-4-1805 rồi tới thác nước Great Falls của miền Missouri vào ngày 13-6. Sau đó vào ngày 25, họ tới Three Forks, nơi hội tụ của 3 dòng sông và họ đã đặt tên cho 3 con sông này là Madison, Jefferson và Gallatin. Khi đi men theo dòng sông Jefferson lớn nhất, đoàn thám hiểm đã tới xứ của người da đỏ Shoshone, vượt rặng núi cao Bitterroot và tới được dòng sông Clearwater. Sau 18 tháng trường vượt núi, lội sông, ngày 7-11-1805, đoàn thám hiểm này đã tới được cửa sông Columbia, bên bờ Thái Bình Dương.

Ngày 23-3-1806, đoàn thám hiểm Lewis và Clark quay trở lại nhưng theo hai lối : Trung Úy Clark đi theo dòng sông Yellowstone và Missouri còn Đại Úy Lewis men theo nhánh Marias của dòng sông đó và cuối cùng, họ đã gặp nhau tại St. Louis vào ngày 23-9-1806 sau 2 năm, 4 tháng, 9 ngày với hành trình dài 9,650 cây số.

Nhờ cuộc thám hiểm của Đại Úy Lewis và Trung Úy Clark, các người định cư và buôn bán da thú đã lần theo con đường thám hiểm kể trên để đi về hướng tây và cũng nhờ đó mà sau này Hoa Kỳ đòi quyền sở hữu miền đất Oregon.

Cũng vào nhiệm kỳ của Tổng Thống Thomas Jefferson, dân số thuộc lãnh thổ Tây Bắc (the Northwest Territory) tăng lên rất nhanh. Năm 1803, tiểu bang Ohio tham gia vào Liên Bang và là tiểu bang thứ 17. Năm 1804, chính quyền Hoa Kỳ lại khuyến khích việc định cư tại phía tây bằng cách cắt các mảnh đất rộng 130 mẫu (hectares) xuống còn 65 mẫu để bán cho dân chúng và người nào có được 80 mỹ kim tiền mặt đều có thể đặt mua một nông trại miền biên giới.

Tổng Thống Thomas Jefferson đã thực hiện được nhiều công trình nhưng thành tích lớn lao nhất của ông là đã mua được Lãnh Thổ Louisiana (the Louisiana Territory). Đây là một sáng kiến mới để mở mang bờ cõi mà không phải dùng đến chiến tranh như cách làm của các quốc gia cổ của châu Âu.

Lãnh Thổ Louisiana là một miền đất rộng bao la, nằm giữa dòng sông Mississippi và rặng núi Rocky, được chuyển nhượng do một hiệp ước từ nước Pháp sang nước Tây Ban Nha vào năm 1762. Tới đầu thế kỷ 19, nước Pháp là quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới nên vào năm 1800, Hoàng Đế Napoléon đã bắt ép nước Tây Ban Nha yếu hèn phải trả miền đất New Orleans và lãnh thổ Louisiana cho Đế Quốc Pháp. Đây là một tin rất xấu đối với các nông gia Mỹ. Các người Mỹ định cư tại phía tây rặng núi Appalachians rất thèm muốn thành phố New Orleans vì quốc gia nào chi phối được thành phố này sẽ kiểm soát được dòng sông Mississippi. Các nông gia miền tây của lãnh thổ Hoa Kỳ vào thời đó mong muốn làm chủ được dòng sông lớn lao này bởi vì nhờ có dòng sông, họ đã chuyên chở gia súc, ngũ cốc cùng các sản phẩm khác.

Khi miền đất Louisiana thuộc về nước Tây Ban Nha, điều này không là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ, nhưng nếu lãnh thổ này thuộc về nước Pháp thì nền dân chủ và việc bành trướng của Hoa Kỳ sẽ bị de dọa. Ngoài ra nước Pháp lại là cường quốc số một, Hoa Kỳ không dễ gì xin được các ân huệ. Nhưng, nước Anh đã đánh thắng nước Pháp trên mặt biển, làm tan biến giấc mộng đế quốc thuộc địa của Napoléon. Hải quân Anh đã làm chủ Đại Tây Dương, gây khó khăn cho nước Pháp trong việc kiểm soát các miền đất thuộc Bắc Mỹ. Ông Bộ Trưởng Hoa Kỳ tại Pháp thời bấy giờ là Robert Livingston đã nêu rõ điểm này với Vua Napoléon và sau đó, Hoàng Đế Pháp quyết định bán đi lãnh thổ Louisiana.

Vào năm 1803, Tổng Thống Jefferson đã được Quốc Hội chấp thuận một ngân khoản 2 triệu mỹ kim để “chi xài đặc biệt”. Ông Jefferson liền cử ông James Monroe sang Pháp giúp Bộ Trưởng Livingston thương lượng với nước Pháp. Trước khi ông Monroe tới Paris, ông Livingston đã đề nghị với vị Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp là Talleyrand để mua một cách khiêm nhường thành phố New Orleans thì được ông Talleyrand hỏi bằng câu: “Ông trả giá bao nhiêu cho cả vùng Louisiana? ”, điều này đã làm cho ông Livingston ngỡ ngàng.

Ông James Monroe tới nước Pháp với ủy quyền của Tổng Thống để mua thành phố New Orleans và vùng Florida, với số tiền không quá 10 triệu mỹ kim, nhưng lại được đề nghị mua tất cả vùng lãnh thổ thuộc Pháp với giá tiền khoảng 15 triệu mỹ kim. Mặc dù hai nhà ngoại giao Mỹ này không có thẩm quyền chi ra một số tiền to lớn đến như thế nhưng họ cũng đã ký kết hiệp ước mua bán vào ngày 30-4-1803. Lãnh thổ mua được rộng 2,292,139 cây số vuông, gần bằng diện tích của Hoa Kỳ vào thời đó.

Khi được biết tin việc mua đất đó hoàn thành, Tổng Thống Thomas Jefferson đã phải bàng hoàng, ông lo lắng không rõ chính phủ theo Bản Hiến Pháp, có quyền nhận thêm lãnh thổ rộng lớn này vào Liên Bang hay không? Dù còn nghi ngại sự hợp hiến trong việc sát nhập một vùng đất quá rộng lớn như thế, Tổng Thống Jefferson vẫn đệ trình hiệp ước mua bán lên Thượng Viện Hoa Kỳ và bản hiệp ước đã được phê chuẩn với phiếu thuận là 24 trên 7. Ông Jefferson về sau đã nói đùa rằng ông đã “làm giãn Bản Hiến Pháp tới khi Văn Bản này bị rạn nứt”.

Nhờ thành tích của Tổng Thống Jefferson, từ tháng 12 năm 1803, lá cờ Hoa Kỳ đã tung bay trên thành phố New Orleans và nhờ việc mua đất đai, Hoa Kỳ đã kiểm soát được dòng sông Mississippi và diện tích của Hoa Kỳ đã tăng lên gấp đôi. Trước vấn đề này, quan điểm của các nhân viên nội các đã khác biệt nhau. Các đảng viên Liên Bang thuộc miền Tân Anh Cát Lợi (the New England Federalists) tỏ ra tức giận vì nhiều tiểu bang mới sát nhập vào Hoa Kỳ sẽ làm tăng thêm số phiếu tại Thượng Viện, như vậy có lợi cho các tiểu bang miền Nam và miền Tây. Về sau, người Mỹ đã nhận rõ rằng giá tiền để mua Lãnh Thổ Louisiana chỉ là một phần rất nhỏ bé so với giá trị thực của miền đất đó.


10- Nhiệm kỳ Tổng Thống lần thứ hai.
Năm 1804 có cuộc bầu cử Tổng Thống. Đất nước thịnh vượng đã là một lý do để ông Thomas Jefferson được dễ dàng đề cử và đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã chọn ông Thống Đốc tiểu bang New York là ông George Clinton làm ứng viên Phó Tổng Thống.

Vào lúc này, một nhóm các đảng viên Liên Bang thuộc miền đông bắc đã e ngại việc mở rộng đất nước sẽ làm yếu đi vị trí và ảnh hưởng của miền Tân Anh Cát Lợi. Họ muốn bầu ông Aaron Burr làm Thống Đốc New York để ông Burr mang tiểu bang New York cùng với miền Tân Anh Cát Lợi tách ra khỏi Liên Bang Hoa Kỳ. Ông Alexander Hamilton là người đã làm thất bại âm mưu này.

Ông Aaron Burr (1756-1836) sinh tại Newark, New Jersey, vào ngày 6-2-1756, là con của Mục Sư Aaron Burr, vị Viện Trưởng Đại Học New Jersey (ngày nay là Đại Học Princeton) và là cháu của nhà thần học danh tiếng theo đạo Calvin tên là ông Jonathan Edwards. Do cha mẹ chết sớm, ông Aaron Burr và người em gái Sarah được một người chú nuôi dạy.

Khi ông Burr đang theo học Luật Khoa thì cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ xẩy ra, ông đã tham gia vào Quân Đội Cách Mạng và phục vụ ban tham mưu của Tướng George Washington trong một thời gian ngắn. Ông Burr là một sĩ quan dễ mến và có tài nhưng ông đã từ chức vì thiếu sức khỏe và cũng vì bất mãn với chính trị. Ông được nhận vào Luật Sư Đoàn New York năm 1782 và hành nghề Luật Sư khá thành công. Ông Burr cưới góa phụ của một sĩ quan Anh và có một con gái tên là Theodosia.

Từ năm 1784, ông Aaron Burr đã giữ nhiều chức vụ của tiểu bang rồi tới năm 1791, trở thành Thượng Nghị Sĩ sau khi đánh bại người cha vợ của ông Hamilton là Tướng Philip Schuyler.

Trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1804, đảng Liên Bang đã thất bại. Ông Thomas Jefferson đoạt được 162 phiếu cử tri, so với 14 phiếu dành cho ứng viên đảng Liên Bang là ông Charles C. Pinckney, một luật sư từ miền Charleston, South Carolina. Như vậy nhiệm kỳ Tổng Thống thứ hai của ông Thomas Jefferson đã bắt đầu mà “không có một cụm mây đen nào ở chân trời”, theo như lời ông Jefferson nói, thế nhưng bão táp đã kéo đến.

Cũng vào năm 1804, cựu Phó Tổng Thống Burr đã gặp thất bại cay đắng trong cuộc tranh cử chức Thống Đốc tiểu bang New York. Ông Burr cho rằng chính ông Alexander Hamilton đã ảnh hưởng xấu tới các cơ hội chính trị của ông do các lời gièm pha, vì vậy ông Aaron Burr đã thách một cuộc đấu súng với ông Hamilton. Ông Hamilton bất đắc dĩ phải nhận lời. Sáng sớm ngày 11 tháng 7 năm 1804, tại Weehawken trên bờ sông Hudson thuộc tiểu bang New Jersey, hai chính khách Hamilton và Burr đã chĩa súng vào mặt nhau. Phát súng đầu tiên đã làm ông Hamilton bị thương rồi qua đời vào ngày hôm sau.

Cái chết của ông Hamilton đã làm ô danh ông Burr. Ông Burr còn bị truy tố về tội sát nhân tại New York và New Jersey. Ông Burr còn trù liệu một âm mưu tại miền Tây Hoa Kỳ vào năm 1806. Với sự trợ giúp của một người Ái Nhĩ Lan giàu có lập nghiệp trên một hòn đảo của dòng sông Ohio với ý định tuyển quân và chiếm cứ một vùng ở phía tây của miền Mississippi. Tướng James Wilkinson, Thống Đốc Lãnh Thổ Louisiana, đã trình bày cuộc âm mưu này với Tổng Thống Jefferson. Tổng Thống Jefferson đã cho lệnh bắt ông Burr, đưa về Richmond và xét xử về tội phản loạn. Nhưng vị Chánh Án Tối Cao Pháp Viện là ông John Marshall (1755-1835) đã cứu xét vụ án này quá hạn hẹp khiến cho bồi thẩm đoàn tha bổng ông Aaron Burr.

Tháng 3 năm 1803 nổ ra cuộc chiến tranh giữa hai nước Anh và Pháp. Tổng Thống Jefferson nhận thấy rằng nhiệm vụ chính của ông là giữ cho Hoa Kỳ ở ngoài cuộc chiến. Vào thời đó, hải quân Anh và Pháp tìm cách đánh phá các tầu biển của nhau, kết quả là phần lớn công cuộc thương mại giữa châu Âu và miền Tây Ấn lọt vào tay các nhà buôn Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, hai ngành thương mại và đóng tầu phát triển rất nhanh, cần đến hàng ngàn thủy thủ, những người này phần lớn tới từ miền Tân Anh Cát Lợi song cũng có nhiều kẻ đào ngũ từ các tầu thuyền của nước Anh. Cũng vào thời gian này, nước Anh cần tới nhiều thủy thủ nên các tầu biển của Anh thường chặn bắt các tầu biển Hoa Kỳ trên biển cả để tìm xét các thủy thủ Anh đào ngũ. Nhưng làm sao phân biệt dễ dàng giữa một người Anh và một người Mỹ, vì vậy hàng ngàn người Mỹ đã bị bắt và bị cưỡng bách đưa vào Hải Quân Anh.

Cuộc chiến tranh tại châu Âu giữa nước Anh và nước Pháp càng gia tăng cường độ, càng khiến cho cả hai phe lâm chiến không quan tâm đến quyền lợi của các quốc gia trung lập. Bằng đạo luật Berlin và Milan năm 1806 và 1807, Napoléon công bố rằng nước Pháp sẽ bắt giữ tất cả các tầu thuyền hướng về hay từ các hải cảng của nước Anh, trong khi đó chính phủ Anh ra lệnh phong tỏa các hải cảng của Pháp và của các nước đồng minh với Pháp.

Tháng 6 năm 1807, chiếc tầu chiến Anh Leopard đã chặn con tầu Hoa Kỳ tên là Chesapeake, đòi tìm xét các lính đào ngũ. Hạm trưởng của tầu Mỹ đã không tuân lệnh nên tầu Anh Leopard đã tấn công tầu Mỹ.

Tổng Thống Thomas Jefferson lúc đó biết rằng Hoa Kỳ chưa được chuẩn bị về chiến tranh và không rõ nên thiên về nước Anh hay nước Pháp. Cách đối phó của ông Jefferson là đóng cửa thị trường Mỹ đối với hàng hóa của cả hai nước và cũng không bán tiếp liệu của Hoa Kỳ cho hai nước Anh và Pháp đó. Năm 1807, đạo luật “Cấm Vận” (the Embargo Act) đã cấm chỉ việc xuất cảng từ Hoa Kỳ và ngăn cản các con tầu biển Mỹ đi vào các hải cảng ngoại quốc.

Lệnh cấm vận đã làm thiệt hại Hoa Kỳ hơn là gây tổn thất cho hai nước Anh và Pháp. Hàng ngàn con tầu biển của Mỹ nằm bất động, thủy thủ và công nhân đóng tầu thất nghiệp, hàng xuất cảng chất đống trong các nhà kho. Kinh tế của miền nam Hoa Kỳ cũng bị thiệt hại khiến cho ông Jefferson bị mất đi các sức ủng hộ. Vào thời kỳ này, nhiều người Mỹ đã không tôn trọng pháp luật, nạn buôn lậu phát triển. Chính phủ Hoa Kỳ vì thế phải tăng cường việc phòng thủ bờ biển.

Trước sự việc nan giải này, Tổng Thống Thomas Jefferson càng ngày càng phải thiên về việc kiểm soát của Liên Bang và ông đã bình luận rằng : “Luật cấm vận này chắc chắn là một vấn đề gây rắc rối nhất mà chúng tôi phải giải quyết”. Sau 14 tháng, nhiều người thấy rằng luật cấm vận đã không gây được ảnh hưởng nào đối với cả hai nước Anh và Pháp. Dân chúng Mỹ phản đối khiến cho Quốc Hội phải xét lại sự việc vào tháng 3 năm 1809 và thông qua một đạo luật mền dẻo hơn (the Non-Intercourse Act).

Vào năm 1808, nhiều người mong đợi ông Jefferson ra tranh cử một lần nữa nhưng ông Thomas Jefferson đã từ chối, vì muốn theo gương của ông George Washington là rút lui sau hai nhiệm kỳ. Ông Thomas Jefferson cũng nói rõ cho mọi người biết là ông ước mong ông James Madison sẽ là vị Tổng Thống kế tiếp. Và ông Madison đã thắng cử dễ dàng.


11- Các năm về cuối.

Ông Thomas Jefferson rời khỏi chức vụ Tổng Thống vào năm 1809, lúc 65 tuổi. Ông đã cảm thấy tự do khi dùng thời giờ cho các bạn bè, sách vở, thư từ, đất đai . . . và để vun trồng "các sự theo đuổi trầm lặng của Khoa Học". Ông đã viết: "Không một người tù nào cảm thấy nhẹ nhàng hơn tôi khi tôi trút được gánh nặng quyền lực".

Ông Thomas Jefferson đã trải qua 15 năm cuối của cuộc đời, góp công vào việc thành lập Đại Học Virginia (UVA) tại thành phố Charlottesville, khai trương vào năm 1825.

Ông Thomas Jefferson đã đóng góp rất lớn lao vào các nguyên tắc của nền Dân Chủ Hoa Kỳ. Cùng với Tổng Thống George Washington, ông Jefferson là một trong các nhân vật vĩ đại của cuộc Cách Mạng Bắc Mỹ mà danh tiếng đã vang lừng trên khắp Thế Giới. Ông Jefferson đã ủng hộ các Quyền của Con Người, các tự do ngôn luận, tôn giáo và báo chí và cũng vì tôn trọng nền tự do sau này mà ông đã phải chịu đựng nhiều vụ nói xấu của các tờ báo vô trách nhiệm.

Ông Thomas Jefferson còn là một nhà canh nông. Ông đã phát minh ra một thứ máy cày (mold board plow) được nông dân Mỹ dùng trong nhiều năm. Ông đã đưa loại máy đập lúa từ châu Âu vào Hoa Kỳ và khuyến khích ông Robert Mills trong việc phát triển loại máy gặt (mechanical reaper). Ông cũng là một trong các người chủ trương phương pháp luân canh.

Là một nhà khoa học, ông Thomas Jefferson khuyến khích việc phát minh ra “thì kế” (stopwatch = đồng hồ bấm), không những được dùng trong các cuộc chạy đua mà còn trong các công cuộc khảo sát thiên văn. Ông cũng là người đặt niềm tin vào loại tầu ngầm và về y tế, là một trong các nhân vật quan trọng chấp nhận chủng ngừa đậu mùa. Các con cháu của ông cũng đồng lòng chủng ngừa như ông.

Về kiến trúc, ông Thomas Jefferson đã vẽ kiểu cho Tòa Nhà Monticello 35 phòng của ông. Đây là một trong các dinh thự lịch sử đẹp nhất của Hoa Kỳ. Ông cũng đã vẽ kiểu Điện Capitol của Thủ Phủ Richmond và các tòa nhà ban đầu của Đại Học Virginia. Về các dụng cụ dùng trong nhà, ông Thomas Jefferson đã nghĩ ra các loại ghế xếp, ghế đu đưa, cùng cải tiến nhiều vật dụng khác. Ông thường được gọi là “Người Cha của Văn Phòng Bằng Sáng Chế” (the Father of the Patent Office) bởi vì đạo luật đầu tiên về phát minh, sáng chế đã được ông giám sát.

Ông Thomas Jefferson qua đời vào ngày 4 tháng 7 năm 1826, đúng 50 năm sau ngày Tuyên Bố Độc Lập của Hoa Kỳ và cùng tạ thế vào ngày này là người bạn cũ và cũng là đối thủ chính trị của ông: ông John Adams.

Ông Thomas Jefferson đã được chôn cất bên cạnh vợ của ông tại Monticello. Trên mộ chí của ông, mọi người đã đọc được hàng chữ mà trước kia, ông đã viết ra cho thợ khắc mộ bia : “Nơi đây an nghỉ Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và là Người Cha của Đại Học Virginia”.

Đây là những thành tích vẻ vang mà chính ông Thomas Jefferson đã đánh giá cao hơn Chức Vụ Tổng Thống Hoa Kỳ.
 Phạm Văn Tuấn - vietsciences