Showing posts with label Tri thức. Show all posts
Showing posts with label Tri thức. Show all posts

Tuesday, February 5, 2013

Phong tục ngày Tết cổ truyền

Mỗi nơi trên thế giới đều có những phong tục đón Tết khác nhau, có phong tục tồn tại và phát triển, có phong tục lại mất đi theo đà tiến hoá của xã hội. Riêng phong tục đón Tết của dân tộc ta bắt nguồn từ những điển tích, huyền thoại xa xưa xem ra có vẻ huyền bí. Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu kỹ sẽ thấy nó mang nhiều ý nghĩa thực tế.

>> 
Phong tục ngày tết Việt Nam
>> Cách cúng lễ ngày Tết cổ truyền Việt Nam

Tục cúng Ông Táo
Thường lệ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, từ thành thị đến thôn quê, khắp nơi trong nước ta dân chúng làm lễ tiễn đưa Ông Táo. Người xưa cho rằng ngày ấy vua Bếp lên chầu Trời để tâu việc làm ăn, cư xử của gia đình trong năm. Qua đó nói lên tình cảm và lý trí của nhân dân ta đối với công việc bếp núc, nhằm đánh giá cao việc chăm sóc dinh dưỡng của đời sống con người và đánh giá lại việc ăn ở của mình trước khi bước sang năm mới.


Tục thả cá chép tiễn ông Táo về trời...

Tục dựng cây nêu
Một cổ tục của ngày Tết Việt Nam là tục dựng cây nêu. Cây nêu là một cây tre dài chừng 2,5 đến 3m dựng trước sân nhà vào tối đêm giao thừa. Trên ngọn nêu có buộc một cái bùa bát quái vẽ trên giấy đỏ, một chiếc giỏ con đựng trầu cau và những ống sáo, những miếng kim khí lớn nhỏ... Khi có gió va chạm vào nhau chúng phát ra những tiếng leng keng nghe rất vui tai.
Ở đây chỉ riêng cái việc dựng nêu trong sân để đón ông bà tổ tiên về ăn Tết cùng gia đình đã nói lên được tính dân tộc, thể hiện tình cảm "uống nước nhớ nguồn". Giỏ trầu cau treo ở cây nêu nói lên ý nghĩa lân bang, tình nghĩa xóm làng (miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu mời khách đến thăm nhà) và lòng yêu âm nhạc thể hiện ở những nhạc cụ mua vui đầu xuân treo trên ngọn nêu.
Tục chơi hoa kiểng
Hoa là linh hồn, hoa là cảnh sắc thiên nhiên trang điểm cho đời, nếu thiếu hoa thì còn gì là ngày Tết nữa. Vì vậy chưng hoa kiểng ngày Tết là một nhu cầu làm đẹp của dân tộc ta có truyền thống từ ngàn xưa, hơn nữa nó còn mang đậm nhiều ý nghĩa.

Trên bàn thờ gia tiên cắm những bông vạn thọ, trường xanh... với sắc hoa vàng rực, đã nói lên được điều ước mong của mọi người là năm mới khoẻ mạnh và trường thọ. Chưng cây hoa đào, hoa mai, với sắc đỏ thắm của đào và những cánh mai vàng rực là những ước mơ hy vọng về sự đổi mới của mọi người, của gia đình, của Tổ quốc - thể hiện phong cách lạc quan, tự tin.

Tục chưng mâm ngũ quả

Ngày Tết, ngoài các thức ăn cúng ông bà tổ tiên trên bàn thờ nhất thiết phải chưng mâm ngũ quả. Chuối là cái nền cho mâm ngũ quả, thứ đến là bưởi hoặc phật thủ, hai loại này bắt buộc phải có. Ba loại còn lại thì tuỳ loại quả có ở mỗi vùng khác nhau. Nhưng chung lại, mâm ngũ quả là những loại trái cây chứa nhiều chất dinh dưỡng, đáp ứng đủ cho nhu cầu hoạt động của con người. Vì vậy, chưng mâm ngũ quả ngày Tết là một ý nghĩa nói lên ước vọng của gia đình bước sang năm mới được no đủ.

Tục chúc Tết
Tết Nguyên đán là những ngày trang trọng, vui tươi nhất của dân tộc ta. Cũng là dịp để mọi người có điều kiện thăm hỏi lẫn nhau: con cháu thăm hỏi cha mẹ, chú bác, ông bà; học trò thăm hỏi thầy cô; gặp mặt bạn bè chúc tụng...

"Mồng một là Tết nhà cha": Sáng mồng một Tết, sau khi lễ gia tiên, người con (hoặc dâu hoặc trưởng) mời cha mẹ ngồi vào hai ghế tựa ở giữa nhà, các con cháu đứng theo thứ tự ngôi thứ: anh chị trước, các em sau, sau cùng là các cháu, mọi người đều mừng thọ và tế sống ông bà, cha mẹ bằng hai lạy và hai vái (người chết thì bốn lạy, bốn vái). Ông bà cũng mừng tuổi các con cháu bằng phong bao được gói bằng giấy hồng điều.

"Mồng hai nhà mẹ": Sáng mồng hai Tết, cha mẹ dẫn đoàn con cháu về quê ngoại chúc tết. Tuần tự lễ tưởng niệm tổ tiên: mừng thọ ông bà ngoại theo nghi thức ở nhà cha, mừng tuổi bà con thân thích bên ngoại và được mừng tuổi lại. Cả hai gia đình cùng chuyện rò vui vẻ và ăn cỗ đầu xuân, càng làm cho tình nghĩa hai gia đình thêm thắm thiết.

"Mồng một là Tết nhà cha, Mồng hai nhà mẹ..." - điều đó chứng tỏ ông cha ta rất coi trọng chữ hiếu, chọn hai ngày đầu năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ hai gia đình nội, ngoại vì hiếu thảo là gốc của đạo đức gia đình.
"...Mồng ba Tết thầy": Công ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục, công ơn thầy giáo dục tư cách đạo đức, mở mang trí tuệ cho mình, vì thế "công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy" đều được nhân dân ta coi trọng.

Tục chúc Tết là một nét đẹp văn hoá thể hiện được lòng quan tâm lẫn nhau, chung vui xuân và đem tặng nhau ý lành, lời ngọc và niềm hy vọng tốt đẹp cho nhau.

Sau cùng những kiêng cữ ngày Tết như: cha mẹ nhịn quở mắng, anh em nhịn cãi nhau... là những ý muốn tốt lành, nhân ái thể hiện nếp sống văn minh và gia đình có văn hoá.

Phong tục ngày xuân là những nét đẹp của đất nước, của dân tộc luôn sống mãi với thời gian. Ðây là những phong tục đẹp của nhân dân ta đã coi trọng ân sâu và thái độ ứng xử tinh tế có nghĩa, có tình trong đời sống.

Xuất hành
Đầu năm mới, người Việt còn có tục xuất hành. Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần...

Thường thường, người ta theo các hướng tốt, xuất hành đi lễ chùa, đền hoặc đi chúc Tết các bậc huynh trưởng, thân quyến hay bằng hữu. Đối với nhà nông ngày xưa, đầu năm mới xuất hành còn để chiêm nghiệm thời tiết. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi, người ta có thể đoán được năm mới hên hay xui, chẳng hạn:
- Gió Nam: chỉ đại hạn
- Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc
- Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả
- Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải
- Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu
- Gió Đông: chỉ có lụt lớn....

Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người mình còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc này thường đem về cắm ở bàn thờ Tổ Tiên.

Thú chơi câu đối Tết
Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê, cùng với việc mua sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua dăm quả cau, bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ Cử.

Câu đối thờ viết trên giấy đỏ dán ở cột, ở cửa nhà nội dung thường bày tỏ lòng biết ơn của cháu con đối với tiên tổ:

Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
(Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân;
Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)
Ở làng trang Đông Hồ câu đối trên đã được cải biên chút ít và đưa vào bộ tranh chủ treo ở bàn thờ gia tiên, hai bên là chữ Phúc, chữ Thọ và đôi câu đối:

Từ thời xuân tại thủ
Ngũ phúc thọ vi tiên

Những chữ Hán được trang trí cách điệu: một bên là con rồng, một bên là con phượng trên nền giấy điểm xuyết hoa, lá, chim muông.

Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết trên giấy đỏ treo thành bức hoành:

"Ấm hà tư nguyên" (Uống nước sông nhớ đến nguồn); "Ðức lưu quang" (Ðức chan hoà ánh sáng).

Dịp Tết còn có các câu đối tức cảnh xuân của các bậc văn hay chữ tốt, cũng được viết trên giấy đỏ treo ở cổng. Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ? Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên đán theo bùa gỗ có hình hai vị thần Thần Ðồ và Uất Luỹ treo hai bên cửa ngõ. Ðó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Ðộ Sóc chuyên cai quản đàn quỷ, hễ quỷ nào "phá rào" đi làm hại dân thì thần hoá phép trừ đi. Sau này việc treo bùa gỗ "Ðào phù" được thay bằng câu đối hai bên cửa.

Ðời sống hấm khá dần, mỗi người, tuỳ hoàn cảnh, gửi gắm vào câu đối những ý tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến, khắp Kinh kỳ, từ dinh thự của quan lại tới các tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối Tết.

Lại có cả cấu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hàng, cửa hiệu. Tương truyền, vào một năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn tết. Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm vợ goá, con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết.

Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ;
Triều đình chu tử tổng ngõ gia.
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ Ðỏ tía triều đình tự cửa ta)

Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu đối Tết bằng chữ Nôm. Ðầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối Nôm. Ðây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vân phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Hiểu rõ vần xoay của tạo hoá, cụ ước ao.
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái
Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.

Cách cúng lễ ngày Tết cổ truyền Việt Nam

Trong ngày Tết, người Việt rất coi trọng phong tục thờ cúng tổ tiên, trời đất nhưng không phải gia đình nào cũng biết và tuân thủ theo đúng các nghi lễ cần thiết.

>> 
Phong tục ngày Tết cổ truyền
>> Phong tục ngày tết Việt Nam

Dịp này, PGS. TS. Phan Thị Yến Tuyết - Giảng viên khoa Việt Nam học, trường Đại học KHXH & NV TP.HCM chia sẻ cùng độc giả cách chuẩn bị mâm cỗ cúng đúng “chuẩn”.

Mâm cúng ngày Tết thường thấy nhất
1. Lễ tiễn ông Táo về trời
Tết của người Việt bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, ngày đưa ông Táo về trời để ông báo cáo việc làm ăn trong năm của gia đình với Ngọc Hoàng. Mâm lễ cúng ông Táo có hương, nến, hoa quả, vàng mã, hai chiếc mũ cánh chuồn của đàn ông, một mũ đàn bà (không có cánh chuồn), ba cái áo giấy và một con cá chép (cá thật hoặc làm bằng giấy).

Lễ cúng thường diễn ra trước 12 giờ trưa ngày 23. Cúng xong, đồ lễ được hóa vàng. Từ Nghệ An trở ra Bắc, dân gian cúng cá chép sống rồi phóng sinh hoặc nuôi trong giếng để cá trông coi gia đình. Dân vùng Nam Trung Bộ lại quan niệm lễ ông Táo chủ yếu là lòng thành, có gì cúng nấy nên rất dân dã. Đặc biệt, lễ cúng vùng này có bánh cốm làm bằng bột nếp rang nở, ở miền Nam là món bánh mè hay còn gọi là “thèo lèo”.

2. Lễ cúng Tất niên

Dân gian cúng Tất niên vào chiều 30 khi nhà cửa đã dọn dẹp xong xuôi, trang hoàng hương đèn, hoa tươi, mâm ngũ quả đón Tết.
Bàn thờ Tất niên có hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và hai bát hương, trước có hai ly nước trong (nước thiêng). Phía sau đèn thường có hai cành hoa cúc giấy hoặc “cành vàng lá ngọc” bằng vàng mã. Giữa bàn thờ là khúc trầm hương hình trôn ốc, mâm ngũ quả, hai bên bàn đặt hai cây mía làm gậy cho các cụ.

Ngoài trầu cau, bánh chưng, lễ Tất niên còn có cỗ mặn: xôi gấc, thịt gà, giò chả, nem, canh măng, miến… Ngày 30 Tết, nhiều gia đình còn có lễ Chạp (Tảo mộ): thăm, sửa sang mộ phần, rước vong linh người đã khuất về hưởng Tết; hoặc có thể cúng tại gia vào chính ngọ (trưa).

3. Lễ cúng Giao thừa

Giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày mồng Một tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất dịp Tết. Để đánh dấu thời khắc này, dân gian làm hai mâm cỗ cúng Giao thừa hay còn gọi là lễ Trừ tịch: mâm cúng bàn thờ gia tiên trong nhà và mâm cúng thiên địa ở sân trước.

Mâm lễ gồm hương, hoa, đèn, nến, bánh chưng, đĩa xôi gấc, vàng mã và các món ăn mặn ngày Tết. Tuy nhiên, lễ vật quan trọng nhất mâm lễ là con gà trống hoặc chân giò heo (năm xung với gà thì cúng lợn và ngược lại).
Gà cúng Giao thừa là gà giò (gà trống choai, không cúng gà mái) nặng chừng 1,2 -1,5 kg. Đem gà mổ moi, luộc chín, bày ra đĩa cùng tiết, lòng bày dưới bụng. Chùa chiền cũng cúng Giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay.

4. Lễ Tân niên

Lễ Tân niên thường được cúng vào mồng Một, mồng Hai và mồng Ba nhưng quan trọng nhất là lễ cúng mồng Một Tết. Lễ cúng Tân niên thường diễn ra vào buổi sáng, cỗ cúng có đầy đủ các món ăn của ngày Tết. Sau khi cúng xong, con cháu thụ lộc tổ tiên rồi mới đi chúc Tết, thăm họ hàng. Mồng Hai, mồng Ba Tết cũng cúng tương tự mỗi ngày một lần.

Ở một số vùng như Nam Trung Bộ, mâm cúng mồng Một là cỗ chay: bánh kẹo, bánh chưng chay (nhân đậu). Đặc trưng trong văn hóa ẩm thực ngày Tết của người Việt chính là mâm cỗ Tết. Mỗi vùng một phong tục khác. Tuy nhiên, mâm cỗ ngày Tết nhìn chung không thể thiếu các món thịt gà, bánh chưng, dưa hành, dưa kiệu. Miền Bắc có thêm xôi gấc, nộm, chả giò. Miền Nam là món khổ qua nhồi thịt, thị kho tàu…

5. Lễ Hóa vàng
Lễ Hóa vàng tiến hành vào mồng Ba Tết hoặc mồng ngày khai hạ (mồng Bảy Tết). Trong ngày này, người Việt làm lễ cúng tạ tổ tiên và đốt nhiều vàng mã để tiền nhần mang về cõi âm.

Tại một số vùng đồng bằng Bắc bộ, dân gian có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia. Lễ vật dâng cúng trong lễ Hóa vàng gồm hương, hoa, nước quả (ngũ quả), trầu cau, rượu, đèn, nến, bánh kẹo; cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng. Trong lễ Hóa vàng, gia chủ phải bày lên mâm cúng tất cả các món có trong nhà vào dịp Tết mà chưa kịp dâng lên tổ tiên.
Theo Thế giới gia đình

Monday, February 4, 2013

Phong tục ngày tết Việt Nam

Thời buổi hiện đại ngày nay, nhịp sống luôn hối hả, tất bật khiến một số gia đình cũng như các bạn trẻ dường như lãng quên đi cái Tết truyền thống của dân tộc Việt Nam, cái không khí đầm ấm rất riêng của những ngày này. Điều này thật đáng buồn nhưng may mắn là phần đông các gia đình Việt Nam vẫn giữ được nét văn hóa tốt đẹp này, chúng ta cùng điểm qua những phong tục tập quán và một số nét đặc trưng ngày Tết bạn nhé .


Tết Quý Tỵ 2013

1) Tranh dân gian ngày tết:

Trong tất cả các loại tranh tết Việt Nam, có lẽ đa dạng và độc đáo nhất là tranh dân gian. Đây là loại tranh trường tồn cùng lịch sử, không trau truốt cầu kỳ như các loại tranh khác mà mang đậm tính dân tộc. 

Trong các làng tranh dân gian Việt Nam, nổi bật nhất là làng tranh Đông Hồ, nằm ở ven sông Đuống. Tranh được làm từ giấy dó, quét phủ một lớp điệp óng ánh làm cho màu in thêm rực rỡ. Từ thời xa xưa, tranh dân gian Đông Hồ đã nổi tiếng là rẻ và đẹp, được nhiều nơi ưa thích. 

Ở phố Hàng Trống (Hà Nội) cũng có nhiều người làm tranh dân gian, nhưng chủ yếu là vẽ tranh thờ (hổ, rồng, thần, thánh...). Họ làm bằng kỹ thuật kết hợp đường nét in đen từ bàn khắc gỗ với việc tô màu phẩm bằng tay. Nghệ sỹ vẽ tranh dùng bút màu quét phẩm nước, tạo nên những gam màu đậm nhạt lung linh. 



Mỗi bức tranh dân gian đều mang một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người. Dễ thấy nhất là tranh vẽ đàn gà, tượng trưng cho tình mẫu tử và sự sum họp đông vui. Tranh mẹ con đàn lợn tượng trưng cho cuộc sống no ấm và cảnh chăn nuôi ở nhà nông. 

Tranh gà trống sặc sỡ và oai vệ, tượng trưng cho ý chí kiên trung, bất khuất của trang nam nhi quân tử và cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người: văn (vẻ đẹp – mào gà); vũ (cứng rắn – cựa gà); nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn); dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết chống lại); tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ Chợ tết: “Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/ Quên cả chị bên đường đang đứng gọi”. 

Tranh đám cưới chuột là minh chứng sống động và hóm hỉnh cho quan hệ mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo, cầu xin mèo để yên cho đám cưới được tiến hành. 

Tranh đánh ghen thì có tính giáo dục những ông chồng hay trăng hoa, đề cao đức tính nhẫn nhịn của người vợ và vai trò của người phụ nữ trong xã hội.Tranh hứng dừa là cái cười tinh tế của dân gian trước sự hớ hênh ô tình của các cô gái... Tất cả đều là những sinh hoạt thường ngày của con người, được vẽ cách điệu tài tình, làm cho cuộc sống vui tươi, sống động.

Tranh dân gian cũng đã có số lượng khá nhiều về đề tài lịch sử như bà Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lay tập trận... Đó là những bức tranh tạo nên sự hùng tráng và niềm tự hào dân tộc. Ngoài ra, có những bức tranh được đặc biệt yêu thích như tranh Phú quý (đứa bé tóc trái đào giữ con vật), Vinh hoa (cậu bé ôm con gà trống), Thất đồng (7 cậu bé hồn nhiên hái quả), Tứ tôn vạn đại (4 cậu bé nô đùa với những dây bầu trĩu quả)... 

Tranh dân gian được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng có điểm giống nhau là đều đề cao đạo lý làm người, giáo dục những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong năm mới. Nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, nhất là mỗi khi tết đến xuân về. 

2) Những nét chấm phá ngày Tết:

Mùa Tết 


Từ 23 tháng chạp trở đi là bắt đầu vào thời kỳ rộn ràng của mùa Tết, tính từ mốc sự kiện "đưa ông Táo về trời" (một nghi thức tiễn đưa thần bếp lên chầu Ngọc Hoàng báo cáo lại tình hình trong năm của chủ gia) vào ngày này. Thiên hạ đua nhau nô nức mua sắm các vật dụng, đặc biệt là quần áo và thức ăn (việc buôn bán mùa Tết thường sẽ chấm dứt từ đúng ngọ ngày 29 hoặc 30 tháng chạp, từ khi đó lần đầu tiên trong năm, chợ búa trở nên vắng vẻ và các sạp trống không). Tại những bến xe tấp nập những người tha phương mua vé xe để trở về quê đoàn tụ cùng gia đình. Không khí lễ mỗi lúc một đầy ngập hơn, người người ai nấy đều nô nức rộn ràng chuẫn bị đón xuân. 
>>> Hướng dẫn chuẩn bị mâm cỗ cúng ông Táo

Chợ Tết 



Đấy là những chợ đặc biệt chỉ xuất hiện vào dịp Tết và chuyên buôn bán các loại "đặc sản" cho người dân hưởng xuân. Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ xả hơi trong những ngày Tết nên nảy sinh tâm lý mua dự trữ, đưa đến mức cầu rất cao. Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa kiểng, những loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài v.v... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. 


Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ lực "quốc hồn quốc túy" 

Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu tươi được bày bán đầy các chợ. Các bà nội trợ mua về cắt lấy phần củ trắng nỏn nà, phơi qua vài nắng cho khô quắt lại rồi cho vào những ve keo, kế đó cho vào các ve củ kiệu này giấm sôi nấu với đường, xong đậy kín lại. Vào vài buổi chợ giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng vịt để chuẫn bị món dự trữ chủ lực: thịt kho nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh tráng, giá để làm dưa giá nữa là xong. Không ai là người Việt mà không cảm khái thứ hương vị dân tộc và khó quên ấy: bánh tráng nhúng nước cho mềm, trải ra trên một tay, cho lên đấy một miếng thịt mỡ, một miếng hột vịt, vài ba củ kiệu, ít dưa giá rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt kho dằm miếng ớt. Ngày tết hễ đói bụng, hay muốn nhậu, ngoài các thứ đều không thể thiếu được "thịt kho, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng". Phải nhìn thấy chúng, nếm chúng, nuốt chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được hương xuân trọn vẹn.Riêng người Bắc, thay vì củ kiệu, một số người dùng củ hành ta với cách làm cũng tương tự. Ve dưa hành có màu hồng như ngọc, trông rất đẹp và "may mắn". 

Màu của ngày Tết

Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v... Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng" mới thôi! Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết

Khái niệm thời gian 

Mùa Tết, không ai bảo ai, mọi người đều cùng nhau dẹp bỏ dương lịch và quay trở sang âm lịch rất tự nhiên, với những khái niệm thời gian trước tết gọi là “hăm” (ngày 20 tháng chạp âm lịch +): hăm mốt tết, hăm chín tết (nếu rơi vào tháng chạp thiếu sẽ không có ngày ba mươi tết), sau tết gọi là “mồng”: mồng hai tết, mồng tám tết... Âm lịch hồi sinh thật kỳ diệu như thể luôn nhắc nhủ mỗi người Việt Nam về tính dân tộc, cổ truyền của ngày lễ trọng đại, thiêng liêng nhất này.

3) Vì sao có tục kiêng đổ rác trong 3 ngày tết ?

Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không dám đổ rác ngày Tết. Tục kiêng đổ rác ba ngày Tết nên ngày 30, dù bận rộn đến đâu cũng phải dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và những ngày Tết thì mọi người phải hết sức giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi. 

4) Viết gì khi khai bút?



Sự "khai bút" này nhằm mong mỏi đón nhận được mọi sự tốt lành nhân năm mới tới. Thường thường người ta phải chọn ngày và giờ tốt để khai bút. Nhiều khi sự khai bút cũng chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi; chẳng hạn như viết lên giấy hồng điều vài chữ: ngày, tháng, năm.... "khai bút đại cát" hay "tân xuân đại cát" (nghĩa là đầu năm mới khai bút để gặp được những điều tốt lành lớn). 

Đối với những danh sĩ thì đôi khi khai bút bằng cách làm một bài thơ đầu xuân bày tỏ nguyện vọng hoặc ý chí của mình. Những bài thơ khai bút này được viết lên giấy hồng điều (giấy màu đỏ) hoặc trên giấy hoa tiên (giấy có vẽ hoa) rồi dán bài thơ lên tường để thưởng xuân. Những người có chức vụ lớn như Tổng Đốc, Tuần Phủ, Tri Phủ, Tri huyện.... thì có lên Khai ấn và Khai triện. 
Tục này cũng thực hiện ở các bộ đường ở kinh đô Huế dưới triều Nguyễn. Ấn và triện là những con dấu của những người giữ chức vụ chỉ huy trong chính quyền. Các vị này nhân đầu năm làm lễ khai ấn, triện bằng cách đóng dấu vào những giấy tờ công văn để cầu mong cho "thiên hạ thái bình" và dân chúng an vui. 

Ngày nay, trong các gia đình, thường người khai bút là bậc trưởng bối trong nhà như ông nội, cha, hoặc con trai trưởng. Những người này chọn ngày, giờ tốt, viết lên giấy trắng những điều mong ước tốt đẹp cho gia đình, họ tộc, làng xã...trong năm mới. 


5) Tết Sài Gòn - Tết nắng :

Nắng Tết Sài Gòn là điều kỳ diệu với dân teen xứ Bắc, nắng Tết ấm cả trong tim người Sài Gòn.

Dưa hấu Tết 
Đất Sài Gòn lắm hội nhiều chợ, vui tưng bừng ngày đêm. Chợ nào chợ nấy bật đèn bán tới khuya lắc. Ngoài cổng chợ, người ta dựng lên mấy gian hàng sáng choang đèn, dán giấy đỏ choạch để bán bánh mứt, dưa hấu, trông nao nức lạ. Gian bán dưa chất bộn rơm. Những trái dưa tròn căng xanh bóng nằm ngoan ngoãn như lũ lợn con. Hồi năm trước, thấy cậu nhóc con chú Tư bán dưa ngồi trong một góc ăn cơm, cái tô cơm đỏ rực. Dòm lom lom một hồi mới biết nhóc ăn cơm… với dưa hấu. Hỏi “Ngon hông cưng” thì gật đầu lia: “Ngon chớ chị, má nói ăn dưa hấu mát ruột!” Chú Tư thở đánh phều “Đợt này dưa dập quá trời đất, bỏ hết thì uổng, phải cắt phần lành cho sắp nhỏ ăn đỡ”. Nhưng năm nay thì khác, đợt dưa nào chở về nhà chú Tư cũng bán sạch sành sanh. 

Ra chợ, bạn không chỉ mua hàng Tết mà còn mua được những nụ cười khấp khởi vui của người bán hàng và cả người mua hàng. Mùa hoa Tết Hai bên đường Kha Vạn Cân (Thủ Đức) là nhà vườn trồng mai bự nhất thành phố, “lé mắt trông ngang” thấy nhà vườn lặt lá mai mà xốn xang trong dạ: “Chèn, sắp Tết rồi đó cà”. Dăm bữa nữa chứ nhiêu, là từ mấy nhánh mai khẳng khiu trụi lá đó sẽ đâm ra những búp, những nụ tròn ủm xanh mướt, đợi đúng đêm giao thừa bung nụ xòe hoa vàng. Nhiều teen Sài Gòn hồi hộp đợi ngày “đánh hàng hoa” dưới Sa Đéc lên. 

Hoa của dân teen bán, nên chậu nào cũng dán xanh đỏ tím vàng sặc sỡ. Có chậu còn được thắt nơ xinh xinh. Một hôm đạp xe lòng vòng dọc đường Phan Huy Chú tìm mua chậu hoa con con thì lạc vào mấy ngõ hẻm quanh quanh. Một khoảnh be bé trồng mãn đình hồng và cúc vạn thọ hiện ra rực rỡ. Đây là mảnh đất trồng hoa hiếm hoi còn sót lại của làng hoa Gò Vấp nức tiếng một thời. Bác chủ khoảnh hoa cười hề hề khi thấy cả đám nhí nhố ào vào… xin chụp hình. Nghe bác ý nói “Hờ, bây cứ chụp đi, qua mùa Tết này bác hết trồng bông rồi” mà tự dưng nghe tiêng tiếc cái chi chi. 

Mùa ngon ngon 
Mấy sáng nay ra chợ thấy mấy cô mấy chị í ới gọi nhau đi lựa củ kiệu, củ cải, dưa hành về muối. Món này ăn với bánh chưng luộc hay bánh chưng chiên là ngon dzách lầu. Nghỉ Tết, được mẹ giao xắt củ cải thành sợi và lột vỏ kiệu. Xế chiều trèo lên ban công phơi mâm củ, thấy nhà bên cạnh có “tên nhóc” cũng đang lụi cụi phơi củ hành. Hắn cười hí hí “Này, mai kia anh đem dưa hành muối đệ nhất qua cho, nhóc cũng nhớ cho lại anh tí tí củ cải muối nhé”. Sài Gòn được ăn Tết đủ các miền. 

Mẹ mình người Nam nên hay làm món củ cải. Còn hai bác láng giềng ngoài Bắc vào, năm nào cũng làm món thịt đông (dù đông bằng tủ lạnh) cho… đỡ nhớ ngoài kia, và luôn đem cho nhà hàng xóm một ít “ăn lấy thảo”! Dì Bảy dưới Bến Tre lên thăm xách theo cả bao dừa. Biết mình thích, mẹ cặm cụi nạo dừa, sên dừa làm mứt. Buổi cuối đi học thêm Anh văn trước khi nghỉ Tết, mẹ dúi vào tay bọc mứt dừa còn âm ấm, mềm chứ không cứng và nhiều đường như ngoài chợ, ăn sướng tê lưỡi. Mứt mềm thế, nhưng tay mẹ thì cứng ngắc vì phải ngồi đảo dừa trong chảo liên tục cả ngày trời! Tết Sài Gòn ấm không chỉ nhờ có nắng! (Vietnamnet)

6) Thiệp chúc tết có từ bao giờ ?

Năm 1843, Hoàng đế Anh đã nhờ một họa sĩ thiết kế tờ thiếp mừng Noel. Từ đó về sau, từ một tháng trước ngày Noel, người ta đã bắt đầu gửi cho nhau thiếp mừng. 
Ở Việt Nam và nhiều quốc gia châu Á, người ta gởi thiệp chúc mừng nhau vào dịp Tết Nguyên đán, là ngày lễ quan trọng nhất trong năm. Ngày nay, việc gởi thiệp chúc mừng có trong nhiều dịp lễ, Tết, Noel, sinh nhật... 


7) Tác dụng chữa bệnh của một số loại quả trong mâm ngũ quả:

Quả bưởi (quả bòng): người Thái gọi là cọ phúc, thuộc họ cam quýt - Rutaceae. - Lá bưởi có tác dụng chữa cảm (dùng cùng một số lá khác để nấu nồi thuốc xông chữa cảm sốt). 
- Vỏ bưởi dùng chữa đầy chướng bụng, bí tiểu. 
- Vỏ hạt bưởi có chất pectin để cầm máu. - Múi bưởi giúp giải khát, dùng tốt cho người tiểu đường. 
- Hoa bưởi có hương thơm đặc biệt, dùng ướp trà và một số thực phẩm. 

Đu đủ: còn có các tên là phiêu mộc, phan qua thụ, mắc hung. Quả chín có tác dụng bổ dưỡng, rất tốt cho trẻ em và người cao tuổi, người mới khỏi bệnh. Đu đủ xanh chứa chất papain có tác dụng phân giải tế bào, giúp nấu thịt chóng mềm. Rễ đu đủ dùng làm thuốc cầm máu. Hoa đu đủ hấp đường phèn làm thuốc chữa ho cho trẻ em khàn tiếng. Ở châu Phi, dân gian còn dùng lá đu đủ để chữa khối u. 

Quả hồng: tên khác là thị đinh. 
- Tai quả hồng còn có tên Thị đế dùng chữa khí nghịch - nấc. 
- Thị sương là chất đường tiết ra từ quả hồng; dùng chữa đau rát họng, khô họng. 
- Thị tất là nước ép từ quả hồng xanh, dân gian dùng chữa cao huyết áp. 

Hồng xiêm: (hình như di thực từ Thái Lan nên có tên này). Tên khác: Tầm lửa, Sacoche, Saboche. Tên khoa học: Sapota achras. 
- Nhựa hồng có tác dụng kích thích tiêu hóa.
- Vỏ quả chữa tiêu chảy 

Chuối: là loại quả giàu dinh dưỡng, tốt cho người cao tuổi và trẻ em bị táo bón. Không dùng chuối cho người tiểu đường. Chuối hương phối hợp bột lòng đỏ trứng gà dùng chữa trẻ suy dinh dưỡng. Như vậy, mâm ngũ quả là tâm sự gửi gắm của mỗi gia đình, nói lên lòng biết ơn trời đất, tổ tiên, ước muốn đầy đủ và sung túc, hòa hợp như năm sắc màu của thiên nhiên trong ngũ hành. 


8) Ý nghĩa ngày tết:

Người Việt ăn mừng TẾT với niềm tin thiêng liêng TẾT là ngày đoàn tụ, là ngày làm mới, là ngày tạ ơn và là ngày của hy vọng.... Ngày Đoàn Tụ - TẾT luôn luôn là ngày đoàn tụ của mọi gia đình. Dù ai buôn bán, làm việc hay đi học ở xa, họ thường cố gắng để dành tiền và thời giờ để về ăn TẾT với gia đình. 

Đó là nỗi mong mỏi của tất cả mọi người, người đi xa cũng như người ở nhà đều mong dịp TẾT gặp lại nhau. TẾT cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã chết. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình bên Phật giáo đã thắp nhang mời hương linh ông bà và tổ tiên đã qua đời về ăn cơm vui TẾT với các con các cháu. 

Ngày TẾT người ta cũng hay thực hiện những nghi lễ, để dâng hương lên các vị thần theo huyền thoại là người ban phước cho gia đình chúng ta được nhiều sức khỏe, nhiều tiền tài, nhiều may mắn và an vui hạnh phúc trong năm vừa qua. Ngày Làm Mới - TẾT là ngày đầu tiên trong năm mới, mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và làm mới mọi việc. Việc làm mới có thể về hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Hoặc làm mới lại về phần tình cảm và tinh thần của con người, để mối liên hệ với người thân được cảm thông hơn hoặc để tinh thần mình thoải mái, tươi mát hơn. Sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng. 

Bàn ghế tủ giường được lau chùi phủi bụi. Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc quần áo mới may bảnh bao. Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui hay để tạo một sự tín nhiệm nơi người chủ nợ. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày TẾT, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối liên hệ được tốt đẹp.

Người mình tin rằng những ngày TẾT vui vẻ đầu năm sẽ báo hiệu một năm mới tốt đẹp sắp tới. TẾT là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Ngày của lạc quan và hy vọng - Năm cũ đã qua mang theo mọi xui xẻo và năm tới sắp đến mang theo đầy niềm tin lạc quan. Nếu năm cũ khá may mắn, thì tin sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau. 

Ngày TẾT người ta đốt pháo nhiều để xua đuổi ma xui xẻo đi và đồng thời người ta múa rồng múa lân sư tử khắp mọi nơi, nhất là những cửa hàng buôn bán để rước may mắn thịnh vượng về. Mùa TẾT cũng là mùa cưới hỏi. Các cặp trai gái thích làm đám cưới vào dịp đầu năm, mùa xuân đất trời đang đẹp và đang mùa hy vọng. Họ hy vọng cho một cuộc đời mới vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau và sẽ có đàn con ngoan. Ngày Tạ Ơn - Người Việt chọn ngày TẾT làm cơ hội để tạ ơn ân nghĩa mình đã được hưởng năm vừa qua. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, cấp chủ nhân cũng cám ơn nhân viên qua những buổi tiệc đãi hoặc quà thưởng để ăn tết.


Sưu tầm

Saturday, September 8, 2012

Tiểu sử các Vua Việt [ P8 - Vua Gia Long ]

Gia Long (1762 - 1820)

Niên hiệu:Gia Long
Năm sanh, năm mất: 1762-1820
Giai đoạn trị vì:1802-1820
Miếu hiệu: Thế Tổ Cao Hoàng Ðế
Tên Húy: Nguyễn Phúc Ánh

 

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nghuyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Ðàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí Tỵ (1773). Lợi dụng lúc Ðàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Ðịnh, chấm dứt sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Ðàng Trong.

Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời đã tỏ ra là một con người có chí và thông minh vì thế rất được Chúa yêu, tuy còn nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đã tỏ ra là một tướng cầm quân có tài.

Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Ðịnh, Chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Ðịnh Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong và vất vả.

Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy lại Bình Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Ðịnh. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc.

Nguyễn Vương vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh trong lòng một mối thù phục quốc. Chính vì thế nên khi biết được Giám mục Pháp Bá Ða Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Ðàng Trong , Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đã để cho con trưởng của mình là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Ða Lộc sang Pháp làm con tin.

Trong thơ cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Ðể đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn đảo), và cảng Hội An (có sách nói là cảng Ðà Nẵng).

Giám mục Bá Ða Lộc ký được hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân ở Ấn Ðộ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Ða Lộc nên nói ra với vua Pháp và cũng vì nước Pháp đang bị nội loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ mãi không được, Giám mục Bá Ða Lộc bỏ tiền riêng để mướn một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 thì Hoàng tử về đến Gia Ðịnh.
Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giã mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 thì vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Ðéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương cũng chạy theo về Xiêm La lánh nạn.

Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội) diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vã đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc Bình Vương. Từ đó anh em Tây Sơn đã có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đã đem quân đánh nhau.

Vì ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn đã không ngó ngàng gì đến các xứ Ðàng Trong nhất là từ Qui Nhơn (Bình Ðịnh) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đã cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1787), trở về nước. Nguyễn Vương đã được dân miền Nam giúp đở rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến phò như Võ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Vương đã lớn mạnh. Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Ðịnh trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn bộ xứ Gia Ðịnh đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia Ðịnh theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong.

Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.

Ở Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Ðược tin, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống lãnh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín.

Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10 tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong.

Ðược tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v...

Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất Bắc, quân Tây Sơn tan rã lần hồi. Ðến tháng 6 cùng năm thì vua Gia Long đã thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.

Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi còn đầu thì đem bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ xuống sông, còn sọ thì làm gáo đựng nước tiểu).

Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng vì đất Nam-Việt đã có bên Tàu đời nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt-Nam để cho khỏi lầm với tên củ.

Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư:

-Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc, v.v...

-Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc, v.v...

-Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử, v.v...

-Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v...

-Bộ Hình : coi việc pháp luật, v.v...

-Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự, v.v...

Ngài lập Văn Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan...

Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Ða Lộc và có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đã theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Ða Lộc. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được tổ chức vào khoãng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đã làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh".

Nhưng vua vẫn một lòng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đình viết sớ đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đình, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đình và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ phạt thẳng tay những người có ý nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết.

Ngày 19 tháng 12 năm Canh Thìn (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng Kim thì Ngài mất năm 1819).

Friday, August 31, 2012

Mười vạn câu hỏi vì sao

Mười vạn câu hỏi vì sao

Phát hiện ngôi sao lớn gấp 300 lần mặt trời


Các nhà khoa học cho rằng đã giải mã được bí mật lớn nhất trong vũ trụ, sau khi phát hiện những ngôi sao lớn không tưởng tại thiên hà vệ tinh của dải Ngân hà.


Giới khoa học đã đưa ra giả thuyết mới mà họ cho rằng có thể giúp trả lời cho một trong những bí ẩn lớn nhất vũ trụ: đó là không tồn tại một cách tự nhiên các ngôi sao lớn hơn mức 150 lần so với mặt trời.


Vũ trụ còn quá nhiều điều vượt qua tưởng tượng của con người - (Ảnh: NASA)

Vào năm 2010, các chuyên gia của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) đã phát hiện bốn ngôi sao có thể biến mọi thiên thể trước đó thành kẻ lùn. Chúng có kích thước lớn gấp 300 lần mặt trời, tức to gấp đôi ngôi sao lớn nhất mà giới khoa học từng có thể tưởng tượng được trước đây.

Mới đây, các nhà nghiên cứu của Đại học Bonn (Đức) cho biết, một phần của cụm sao khổng lồ R136 thuộc Đám Mây lớn Magellan (LMC), cách Trái đất 160.000 năm ánh sáng và là thiên hà vệ tinh gần thứ 3 của dải Ngân hà, có thể tồn tại ở kích thước nói trên khi mới khai sinh, do có quá ít tình trạng hợp thể ở LMC.

Cho đến khi phát hiện những vật thể khổng lồ vào năm 2010, các quan sát trong phạm vi dải Ngân hà và các thiên hà khác chỉ giới hạn kích thước tối đa của ngôi sao ở mức gấp 150 lần mặt trời.

Sau khi thực hiện các tính toán, nhóm chuyên gia của Đại học Bonn khẳng định vũ trụ vẫn có khả năng sản sinh những ngôi sao khổng lồ như vậy, và biết đâu chừng sẽ có lúc con người tìm thấy các mặt trời vượt qua kích thước này.


Theo Thanh Niên


Phát hiện hành tinh "bắt cá hai tay"

Kính viễn vọng không gian Kepler của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) phát hiện hai hành tinh xoay quanh hai ngôi sao.
 
Hình minh họa một hành tinh xoay quanh hai ngôi sao.
(Ảnh: NASA)
NASA thông báo đây là lần đầu tiên giới thiên văn phát hiện hệ hành tinh có hai ngôi sao. Chúng cách địa cầu chừng 4.900 năm ánh sáng và nằm trong chòm sao Cygnus. Sự tồn tại của nó chứng minh rằng các hành tinh có thể xoay quanh hệ sao đôi.
Hành tinh ở phía trong của hệ, có tên Kepler-47b, xoay quanh hai ngôi sao trong 50 ngày. Hành tinh này sở hữu một bầu khí quyển siêu nóng nên nó bị bao phủ bởi một lớp khí giống như sương. Với bán kính gấp ba lần địa cầu, nó là hành tinh nhỏ nhất xoay quanh ngôi sao mà con người từng phát hiện.

Kepler-47c, tên của hành tinh bên ngoài, xoay quanh hai ngôi sao trong 303 ngày. Khoảng cách của nó với hệ sao đủ lớn để nước tồn tại ở dạng lỏng. Tuy nhiên, nó lại là một hành tinh khí khổng lồ với kích thước lớn hơn một chút so với sao Hải Vương.

Theo VNE

11 hiện tượng tự nhiên đang hoành hành Trái đất

(KĐH) - Ở bất kể nơi nào trên khắp thế giới vẫn luôn diễn ra những hiện tượng thiên nhiên như: Động đất, sóng thần, lũ hụt, bão táp ...Những hiện tượng này đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng và của cải mà con người làm ra. Dưới đây là 11 hiện tượng thiên nhiên đang "hoành hành" cuộc sống của con người trên khắp thế giới.

Động đât: Hình ảnh của trận động đất Hyogo vào năm 1995 Ở Nhật Bản.

Sóng thần: Ảnh hố xoáy khổng lồ trên Thái Bình Dương xuất hiện sau trận động đất ở Nhật Bản hồi tháng 3 năm 2011.

Núi lửa: Trong ảnh, dung nham chảy từ Công viên núi lửa tại Hawaii, Mỹ đổ xuống Thái Bình Dương. Hơi nước bốc lên từ biển cùng với các dòng nham thạch nóng chảy tạo nên khung cảnh kỳ ảị.

Vòi rồng: Một vòi rồng lửa di chuyển gần ống khói của một tòa nhà cháy tại Mỹ trong năm 2010. Ảnh: National Geographic.

Lốc xoáy

Sét: Tia sét trên núi lửa ở Eyjafjallajokul, Iceland.

Bão cát

Lũ quét: Trong ảnh, mưa lũ đã làm ngập nhiều nhà dân ở Bảo Thắng (Lào Cai) - Ảnh: Thu Phương

Bão tuyết, trong ảnh: Một cơn bão tuyết đang hoành hành tại miền Trung nước Mỹ

Băng tan: Hình ảnh băng tan ở Bắc cực.

Hạn hán, trong ảnh: Hạn hán trên sông Mêkong
Nguồn: Báo GDVN