Showing posts with label Giai thoại đất việt. Show all posts
Showing posts with label Giai thoại đất việt. Show all posts

Saturday, August 25, 2012

[Giai thoại ] Công nữ Ngọc Hoa, nàng là ai?

Trước khi Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc cho ấn hành cuốn “Nguyễn Phúc tộc Thế phả” (nhà xuất bản Thuận Hóa, 1995) thì khi đề cập đến bốn người con gái của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên,hầu hết các tài liệu lịch sử vì không biết tiểu sử của hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa (hoặc có thể vì lý do khác) nên chỉ ghi là “khuyết truyện”.Tập san BAVH (2) ghi như sau:
1)-Ngọc Liên: [Mẹ là hoàng hậu(3)] Vợ của Nguyễn Phúc Vinh,con trưởng của Mạc Cảnh Huống, phó tướng, trấn thủ Trấn Biên,về sau đổi là Nguyễn Hữu Vinh.(4)

2)-Ngọc Vạn: (Mẹ là hoàng hậu) Không để lại dấu tích.

3)-Ngọc Khoa:Mẹ là hoàng hậu) Không để lại dấu tích.

4)-Ngọc Đỉnh: (không rõ mẹ là ai) Lấy Nguyễn Cửu Kiều, Nghĩa Quận công, con của Lê Quảng, tước Quận công(4). Bà mất năm Giáp Tý (1684).


Từ khi “Nguyễn Phúc tộc Thế phả” được xuất bản tại Huế (1995)thì tiểu sử hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa mới được công bố rõ ràng :
  • Nguyễn Phúc Ngọc Vạn (con gái thứ hai của Sãi vương) Năm Canh Thân(1620 ) bà được Đức Hy Tông (Sãi vương) gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II.Về sau nể tình bà,vua Chân Lạp cho người Việt lập một dinh điền tại Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay).
  • Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (con gái thứ ba của Sãi vương) Năm Tân Mùi (1631) bà được Đức Hy Tông gả cho vua Chiêm Thành là PôRôMê.Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước Việt Chiêm được tốt đẹp

Sách “Dân tộc Chàm lược sử” cũng có ghi chép về cuộc hôn phối Việt Chiêm nầy.


Sau khi “Nguyễn Phúc tộc Thế phả”được phát hành và sau khi đài truyền hình VTV ở Sài Gòn chiếu phim “Thời gian vĩnh cửu”(1996) - phim do đài truyền hình CV21 của Nhật và đài VTV của Việt Nam phối hợp thực hiện – thì năm 1997, trong sách Hội An do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành, ở chương 3 mục 1”Hai người đàn bà Hội An ở Nhật Bản”, tác giả Nguyễn Văn Xuân viết:”Sotaro, âm là Mộc Thôn Tông Thái Lang. Dòng họ nầy rất giàu có và đã sang ở Hôi An rất sớm,bằng cớ còn lưu lại là một bức thư ngắn bằng chữ nôm gởi cho chúa Nguyễn. Mộc Thôn là chủ một chiếc tàu riêng.Ông cư trú tại đây làm ăn và gây nhiều cảm tình mật thiết với chúa Nguyễn Phúc Nguyên.Ông được chúa Nguyễn tin cậy, giao cho nhiều trọng trách ở Hội An.Vào năm 1619 chúa Nguyễn lập cho ông một tờ thư xác nhận ông đã tự nguyện ở dưới gối (tức là làm chức quan trung thành với chúa ) Sau đó chúa cho ông lấy họ Nguyễn tên Đại Lương, cự danh Hiển Hùng.Chúa cũng mưu sự giao thông lâu dài ,tốt đẹp với Nhật Bản nên gả con gái là Ngọc Khoa cho ông.(cf Trần Gia Phụng/Ai đưa công chúa sang ngang)

Trên “Đặc san Quảng Đà”năm Mậu Dần 1998 do nhà xuất bản Sông Thu ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ xuất bản tháng 6/1998, trong bài”Những nét đại cương về thành phố Hội An, mục”Hội An và giai thọai công chúa Ngọc Khoa”đưa ra cả hai thuyết về công chúa Ngọc Khoa như sau:

1.-Công chúa đã kết hôn với vua Chăm Pa là Po Ro Mê. 


-2-

2.-Công chúa kết hôn với một thương khách người Nhật Bản đến buôn bán nhiều năm tại Hôi An (1603 – 1619) tên là Araki Sotaro, tên Việt là Nguyễn Đại Lương. Bà đã theo chồng về Nhật năm 1620,gặp lúc Nhật cấm tàu buôn xuất dương,đành ở lại Nagasaki, lấy tên Nhật là Okakutome,gọi thân mật là Anio. Họ sinh hạ được một người con gái,đặt tên là Yasu. Sotaro qua đời năm 1636 và công chúa Ngọc Khoa cũng mất vào năm 1645;ngôi mộ của hai người đươc chôn cất trong khuôn viên chùa Daionji, nơi họ đã bỏ công sức xây cất và trùng tu. (Trần Gia Phụng/Ai đưa công chúa sang ngang).

Trong bài viết trích dẫn trên, tác giả Trần Gia Phụng lập luận rằng bà vợ của thương nhân Sotaro chắc chắn không thể là công nữ Ngọc Khoa. Nhưng Trần Gia Phụng không xác định bà vợ đó là ai.Ông chỉ phỏng đoán rằng:

1.-Vì muốn tăng giá trị của người đàn bà ông yêu mến, Sataro có thể nói với gia đình hoặc với bà con rằng vợ của ông là công chúa hay gì đi nữa, làm sao ai biết được?

2.-Bà vợ của Sataro có thể là một người bà con trong dòng họ Nguyễn Phúc,có thể đã được Nguyễn Phúc Nguyên, khi ông còn là hoàng tử trấn nhậm ở Quảng Nam, tác thành cho hai bên lập gia đình với nhau. Biết đâu Nguyễn Phúc Nguyên nhận người đàn bà nầy làm con nuôi trong gia đình để làm tăng giá trị của cuộc hôn nhân? Dù thế nào đây cũng là một điều lý thú có thể nghiên cứu thêm bằng những tài liệu về phía Nhật Bản (Trần Gia Phụng/bài đã dẫn).

Nhận xét:


1)- Về phiên âm tên Araki Sotaro: taro âm Hán Việt là thái lang.Theo phong tục Nhật Bản, thái lang là tên đặt cho người con trai trưởng.(Có vài tài liệu ghi là Sataro Araki ,đó là ghi theo kiểu người Âu, tên trước, họ sau).Tên Việt Nam của Sataro là Nguyễn Thái Lang, có lẽ là dựa theo chữ taro .Có vài tác giả gọi là Nguyễn Đại Lương, chắc là do nhầm lẫn vì chữ Thái và chữ Đại (Hán tự) chỉ khác nhau cái dấu chấm, còn chữ Lương là phần bên trái của chữ Lang. Araki Sotaro đọc theo âm Hán Việt là Hoang Mộc Tông Thái Lang.Tác giả Nguyễn Văn Xuân phiên âm là Mộc Thôn Tông Thái Lang e không đúng (Mộc thôn = Kimura)2.- Như trên đã nói,tác giả Trần Gia Phụng phỏng đoán vợ của Sotaro có thể là một người con nuôi và ông gợi ý phải nghiên cứu thêm những tài liệu về phía Nhật Bản.Có lẽ ông muốn nói đến bản dịch bộ sách”Hòa văn ngọai thiên thông thư”(trong đó ghi chép những liên hệ của người Nhật đến buôn bán ở Hội An từ năm1559 đến 1674, kể cả câuchuyện của Sataro) mà ta chưa có.

Trong một bài viết của ông Đỗ Thông Minh, một cựu du học sinh ở Nhật Bản nhan đề là “Người Việt Nam đầu tiên ở Nhật Bản” tác giả có nhắc đến cuốn”Những Samurai của biển”(Umi no Samuraitachi)do Ichiro Shiaishi viết có ghi chép về cuộc hôn nhân Nhật Việt nầy. Chúng ta chờ đợi những phát hiện mới từ phía những tài liệu Nhật Bản nầy.

3)-Cũng trong bài viết”Người Việt Nam đầu tiên ở Nhật Bản”, tác giả ghi rõ ràng….”Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Hoa ,còn có tên là Vương Gia Cửu là người Việt đầu tiên đến định cư ở Nhật Bản.

Một tác giả khác, ông Mai Thanh Hải, trong cuốn”Chuyện kín cấm thành”(nhà xuất bản Văn Hóa Thông TinVN, 2008), trong chương”Lấy chồng ngọai quốc”, trang 16 viết rằng…..”…Chúa Nguyễn Phúc Nguyên có 5 con gái, cô lớn tên là Ngọc Liên,…..cô út là Ngọc Đỉnh….còn lại ba con gái nữa…..công nữ Ngọc Vạn gả cho vua Chân Lạp,…công nữ Ngọc Khoa gả cho vua Chăm Pa là PôRôMê,và công nữ Ngọc Hoa gả 

-3-

cho một thân vương Nhật Bản đứng đầu các doanh nhân sang làm ăn buôn bán ở cửa biển Hội An.(Bà Ngọc Hoa không để lại tư liệu, hồi ức nào)”

Còn nữa, Việt Sử Giai Thọai có dẫn lời của cụ Đào Trinh Nhất(5),cho biết Chúa Nguyễn Phúc Nguyên có 5 con gái theo thứ tự là Ngọc Liên, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa, Ngọc Đỉnh và Ngọc Hoa.


Không ai trong 3 tác giả trên cho biết xuất xứ của thông tin trên cho nên ta không biết cái tên Ngọc Hoa lấy ở đâu ra.

Thế còn BAVH thì sao?

BAVH năm 1933, cuốn 4 trang 268 , trong bài “Carnet d’un collectionneur”(sổ tay của một nhà sưu tập), đoạn nói về những vùng có kiều dân Nhật bản xưa ở Đông Dương(Anciennes colonies japonaises en Indochine) chép như sau:

Parmi les armateurs japonais qui commerçaient avec l’Indochine, au XVIIe siècle, il convient plus spécialement de retenir les noms dedeux d’entre eux qui commerçaient avec l’Annam : Araki Sôtarô et Shichirôbei Eikechi.

Sôtarô avait épousé en 1620, une jeune fille de la famille royale de Cochinchine. Elle s’appelait Amô et suivit son mari au Japon. Lorsque l’édit du Shogun interdit, en 1636, toute sortie du Japon des sujets japonais, ou toute entrée de ceux qui s’étaient expatriés, elle était encore dans ce pays.Elle mourut en 1645. Elle est enterrée au temple Daion-ji àNagasaki, et les descendants de son mari conservent un miroir qu’elle avait apporté d’Annam (1).

(Trong số chủ tàu buôn Nhật Bản giao thương với Đông Dươngvào thế kỷ 17,đặc biệt ghi nhận hai người trong số họ đã buôn bán với An Nam: Araki Sotaro và Shichirôbei Eikechi.

Vào năm 1620,
Sotaro kết hôn với một tiểu thư thuộc hoàng gia….

BAVH không hề nhắc đến cái tên Ngọc Hoa , cũng không khẳng định tiểu thư đó là con gái của Chúa Nguyễn, mà chỉ nói chung chung :thuộc hoàng gia….

Trở lại thông tin của tác giả Mai Thanh Hải “Bà Ngọc Hoa không để lại tư liệu, hồi ức nào”, nếu ta hiểu ý ông muốn nói là “bà vợ VN của Sotaro không để lại tư liệu, hồi ức nào’’ thì e không đúng. Bởi vì qua những tài liệu đã phổ biến, ta đã nghe nói đôi điều về bà:
 -

Bà là con của chúa Sãi,(hoặc là người trong hoàng gia) năm 1619 được gả cho một thương nhân Nhật Bản tên là Araki Sotaro.
  • Bà có tên Nhật là Wakaku, tên thân mật là Anio.
  • Bà theo chồng về Nhật năm 1620,định cư ở Nagasaki.
  • Bà mất năm 1645, sống lâu hơn chồng 10(hay 9?)năm và - thật hi hữu – bà chết cùng ngày cùng tháng với chồng.
  • Bia mộ chung của hai ông bà được chôn ở chùa Đại Âm Tự(Daionji), Nagasaki. -

Hai người có một con gái tên là Yasu (Gia Tu).
  • Viện Bảo tàng Nghệ thuật Nagasaki còn lưu trữ chiếc gương soi của bà.
  • Hằng năm từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 10, trong lễ hội Okunchi ở Nagasaki có một màn đám rước do hai em bé đóng vai Sotaro và Wakaku đứng trên mũi một chiếc thuyền buôn. (Okunchi là một lễ lớn, là niềm tự hào của Nagasaki). 

-4-
Những điều nghe nói đó nay đã được tác giả Trương Văn Tân làm sáng tỏ thêm qua một bài ký sự viết sau lần trở lại thăm viếng Nhật Bản gần đây. Thiên ký sự (với hình ảnh minh họa) có tên là:”Một thoáng Phù tang
Trong đọan nói về “Nàng công nương họ Nguyễn” tác giả viết như sau:”…Tôi đi xe điện tìm đến con đường lịch sử Teramachi-dori( đường Xóm Chùa). Ở giữa con đường Xóm Chùa là Đại Âm Tự (Daionji). Ngôi chùa nầy có ít nhiều liên hệ đến Việt Nam. Phía sau ngôi chùa là một nghĩa trang lâu đời dọc theo triền núi, có hàng ngàn, hàng chục ngàn ngôi mộ chôn hài cốt của giai cấp quí tộc và giai cấp võ sĩ “samurai” vài trăm năm trước.
 …..

Tôi đến thăm chùa 
với mục đích tìm ngôi mộ của một vị công nương Việt Nam, concủa Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được gả về Nagasaki năm 1619, kết hôn với Araki Sotaro(Hoang Mộc Tông Thái Lang), một thương nhân nổi tiếng đương thời và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai …Trước cổng mộ thành phố Nagasaki có dựng một bảng tóm tắt tiểu sử của ông Araki Sotaro và và người vợ, một công nương Việt Nam với cái tên Nhật Wakaku(Vương Gia Cửu)…..Tôi tìm hiểu thêm về mộ phần của Araki Sotaro qua thông tin trên trang sao chụp từ sách tài liệu của nhà chùa. Được biết, Araki Sotaro sau khi thành hôn với công nương Wakaku đã tự đặt thêm một cái tên Việt Nam là Nguyễn Thái Lang. Công nương Wakaku nổi tiếng và được người dân Nagasaki gọi bằng cái tên thân mật là Anio-san……Công nương mất năm 1645, như vậy bà sống ở Nhật 26 năm, được ban pháp danh là Diệu Tâm, một pháp danh rất Việt Nam. Cũng theo trang thông tin nầy, hơn hai trăm năm sau, vào thời Minh Trị, mộ phần của Araki Sotaro và Anio-san đã được con cháu đời thứ 13 cải táng và mộ phần hiện tại chỉ có đời thứ 3, thứ 12, 13 và 14(Araki Sotaro là đời thứ 1)


Đọc bảng tiểu sử và tìm hiểu phần tiếng Nhật trên đó tôi có nhận xét sau:


-Phần tiếng Nhật: về lai lịch,bảng tiểu sử ghi:”Vương Gia Cửu, một người con gái bà con bên ngọai của Quốc vương An Nam. Chính quyền Nagasaki đã dùng chữ musume =người con gái (thường)chứ không dùng chữ hime(chữ nầy dùng để chỉ con gái của tướng quân Nhật, vợ tướng quân Nhật hoặc dùng để dịch chữ “Princess”). - 


-Phần tiếng Anh: Ở đọan viết bằng tiếng Anh, chữ relative được dùng để chỉ liên hệ giữa công nương Wakaku và quốc vương An Nam , chứ không phải dùng chữ daughter (During a trip to An Nam (Viet Nam) in 1619 Araki Sotaro was betrothed to Wakaku, a relative of the King of An Nam). 

Tôi bắt đầu tin rằng công nữ Wakaku chỉ là con nuôi của Chúa Sãi. Mãi đến khi tôi tình cờ tìm được một tài liệu của Hội Hữu Nghị Nagasaki – Việt Nam (Nagasaki-Việt Nam Frienship Association) thì sự thật đã sáng tỏ: 


-5-



Bảng tiểu sử ông Araki Sotaro và vị công nương Việt Nam do thành phố Nagasaki dựng lên (hình của Trương Văn Tân)
Trong bài Sotaro Araki and Princess Anio (của Hội Hữu Nghị Nagasaki-VietNam) có đọan sau: 
There was a man in Nagasaki, Sotaro ARAKI, who lived from the late 16th century to the early 17th century. At first he was a samurai in Kumamoto not far south of Nagasaki, and moved to Nagasaki in 1588 and started living there on an estate. Japanese were quite active in those days, going down south and building many Japanese towns in Southeast Asia.
  • Sotaro, getting aboard a goshuin-sen (officially-licensed trading ship), went to visit the Philippines, Vietnam, Thailand, Cambodia and was said to have acquired a vast fortune from trade. In 1619 in what is now Hue, he met and married Wakaku, a woman of maternal bloodline of the Vietnamese King who adopted her as a daughter. Sotaro went home with his new bride, and built an emporium (trading house) in Motoshikkui-machi in Nagasaki. He was surely the first Japanese to have an international marriage and came back to Japan with a King’s daughter, albeit an adopted one. Princess Wakaku, while living in Nagasaki, was called Ani-o-san and was well-liked by the Nagasaki citizens…
  • Xin tạm dịch đọan cần thiết:…”Năm 1619 tại nơi mà hiện nay gọi là Huế ,ông gặp gỡ và kết hôn với một người con gái thuộc dòng bên ngọai được Vua An Nam nhận làm con nuôi. Sotaro trở về nước với cô dâu mới, và gầy dựng một trung tâm thương mại tại Motoshikkui-machi,ở Nagasaki. Có lẽ ông là người

Nhật đầu tiên kết hôn với người nước ngoài và trở về Nhật với một công nữ con Vua, cho dù chỉ là con nuôi….” 

- 6 -


Đến đây có thể tạm kết luận như sau:
Chúa Sãi có 4 người con gái được ghi vào sử sách và tiểu sử cũng khá rõ ràng. Ngoài 4 công nữ đó,Chúa còn một người con nuôi gả cho một thương nhân Nhật Bản thuộc dòng dõi võ sĩ đạo, giàu sang và có thế lực. Bà theo chồng qua sinh sống ở Nhật trong 26năm, được người Nhật ở Nagasaki quí mến. Khi bà chết, mộ bà được chôn cạnh mộ chồng ở bên trong một ngôi chùa tại Nagasaki, sau nầy con cháu đời thứ 13 đã cải táng đi đâu không rõ.


Riêng về câu “thuộc dòng bên ngọai của vua An Nam” theo thông tin từ tài liệu Nhật bản thì nếu hiểu vua An Nam chỉ Chúa Sãi thì bên ngọai đây là chỉ họ Mạc. (Thương nhân các nước ghi ghé Đàng Trong, họ xem chúa Nguyễn là vua An Nam, hơn nữa “tại nơi mà nay gọi là Huế”giúp ta hiểu vua An Nam chính là Chúa Sãi)

Chuyện của bà là một chuyện có thật và tên thật của bà là gì không còn cần thiết nữa. Đã có người gọi bà là Công nữ Ngọc Hoa, thôi thì ta hãy cứ tạm gọi bà bằng tên đó cũng được. 

Chú thích:


(1)Tác giả bài viết thành thật cám ơn chị Quỳnh Chi đã giúp giải thích các từ tiếng Nhật trong bài nầy.
(2)BAVH:Bulletin des Amis du vieux Hué=Tập san của Hội Đô Thành Hiếu cổ.(cf Généalogie des Nguyen avant Gia Long, năm 1920, trang 324).

(3)Hiếu Văn hoàng hậu, tức là bà MạcThị Giai, con gái của Mạc Kính Điển,bà gọi MạcCảnh Huống là chú ruột. Con gái bà là Ngọc Liên lại lấy Nguyễn Phúc Vinh (tức Mạc Kính Vinh, con của Mạc Cảnh Huống) Vậy Ngọc Liên vừa gọi Mạc Cảnh Huống là ông chú vừa gọi là cha chồng.
Chưa hết! Bà MạcThị Giai là chắt nội, cháu nội, cháu gọi bằng bác, là chị, là em của tất cả vua nhà Mạc trị vì từ 1527 đến 1625
(4)Hai phó tướng nầy được cải họ, cho mang quốc tính.

(5)Cụ Đào Trinh Nhất sinh năm 1899, con cụ Đào Nguyên Phổ,rể cụ Lương Ngọc Quyến. Cụ Đào Trinh Nhất là học giả, và là nhà báo lỗi lạc. Cụ là tác giả cuốn “Nước Nhựt Bổn-30 năm duy tân”.
Vietsciences- Thân Trọng Thủy

[ Giai thoại ] Ai về Chiêm quốc hộ Huyền Trân?

Salam!


Hôm nay là ngày kỷ niệm 20 năm thành lập Văn Phòng Quốc Tế Champa (International Office of Champa), hãy cùng nhau hé mở cánh cửa bí mật vào một nền văn hoá rực rỡ, tưởng là bị lãng quên, đó là văn hoá Champa, mà ngưòi Việt quen gọi là Chiêm thành hay Chàm, Hời hay Lồi. Ngưòi Chàm tự gọi là Chăm hay Champa, tên một loài hoa.

Hoa champaca màu trắng, vừa giống hoa ngọc lan vùa giống hoa sứ. Trong một chuyến đi cruise đầu năm 2008, tôi mang theo tập san Champaka, bìa có in một bông hoa sứ. Một nhân viên người Bali mượn đọc và cho hay hoa champaca cũng là hoa của đảo Bali, thuộc Indonesia. Anh cũng hiểu một số chữ Chàm in trong sách. Từ đó thủy thủ đoàn nguời Indonesian và tôi chào nhau theo kiểu Bali và Chàm, cũng giống người Việt xá nhau khi vào chùa, hai tay chắp truớc ngực, đầu hơi cúi. Bông hoa và tay chắp, như dấu hiệu văn hoá xuyên quốc gia, bỗng dưng mang lại niềm vui dịu dàng suốt cuộc hải hành dù giữa một biển ngưòi xa lạ.

Hương thơm của nền văn minh rực rỡ của vương quốc Champa, xứ sở của trầm hương, đã được nhiều nhà sử học và khảo cổ học nghiên cứu. Tuy nhiên, sức tàn phá cuả thiên nhiên và con người thô bạo hơn, đến nỗi một thi sĩ người Việt là Phan Ngọc Hoan, yêu Champa đến lấy bút hiệu Chế Lan Viên, đã ai oán kêu lên :

Chắc có lẽ linh hồn ta lay động
Khi vội vàng trở lại nước non Chiêm
Chiến tranh liên tục giữa hai nước láng giềng Chàm-Việt xảy ra hàng ngàn năm đã tàn phá cả hai dân tộc. Chỉ nhắc loáng thoáng đôi điều nơi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
Đời Lê, năm 982, “…vua Lê Đại Hành chém Vua Chiêm là Phế Mị Thuế tại trận, bắt sống quân giặc không biết bao nhiêu mà kể, bắt được kỹ nữ trong cung trăm ngừoi và một thầy tăng người Thiên Trúc, lấy các đồ quí mang về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn, san phẳng thành trì, phá huỷ tôn miếu, vừa một năm thì trở về Kinh sư.”

Đời Lý, năm 1044, vua Lý Thái Tôn mang quân đi đánh Chiêm Thành, “…Quách Gia chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Bắt sống hơn 5,000 nguời, còn thì bị quan quân giết chết, máu đầy gươm giáo, xác chất đầy đồng. Vua lấy làm thương xót mới hạ lệnh rằng “Kẻ nào giết bậy ngưòi Chiêm thành thì sẽ giết không tha…”

Năm 1069, “Vua Lí Thánh Tông bắt vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn nguời….

Về phía Đại Việt, ngoài những lần quân Chàm quấy đảo nơi biên giới, kinh thành Thăng Long cũng ba lần bị thớt voi Chàm dẫm nát vào những năm 1370, 1377 và 1382 do việc vua Chế Bồng Nga đòi lại hai châu Ô- Lý.

Sử sách cũng nhắc đến những khoảng thời gian hòa bình, khi liên minh Chăm-Việt dựa lưng vào nhau chống quân Nguyên. Mối giao hảo đẹp đẽ tới nỗi Thuợng Hoàng Trần Nhân Tôn, lúc đó là thiền sư, sang viếng thăm nước Chăm suốt 9 tháng. Chuyến đi này cũng khởi đầu cho cuộc nhân duyên giữa vua Chế Mân 43 tuổi và công chúa Huyền Trân 19 tuổi. 

Nhắc lại lịch sử làm gì? Không ngoài mục đích nhắc nhở nhau, rằng không có qúa khứ, sẽ không có hiện tại. Không thể thay đổi lịch sử, thì hãy cùng nhau ghi nhận, học tập những chinh chiến can qua, để thấy bài học lịch sử gồm cả khiếm khuyết của các lãnh đạo, và sự bất toàn nơi chính-sự các quốc gia.

Những giọt lệ nặng chĩu dài trên má của ông Từ Công Thu - anh cả của nhạc sĩ Từ Công Phụng - ngưòi sáng lập Văn Phòng Quốc Tế Champa, khiến bài phát biểu của ông bị ngưng lại nhiều lần, cho thấy nỗi khắc khoải khôn nguôi về một vết thương còn tươi máu. Giấc mơ phục hồi vưong quốc Champa hoàn toàn bị vua Minh Mạng dập tắt năm 1832 khi lãnh thổ cuối cùng của Champa bị đổi tên thành Bình Thuận. Lãnh thổ mất, nhưng Champa không mất, bởi vì trong Chàm có Việt, trong Việt có Chàm. Chăm-Việt đã bất khả phân ly từ hàng ngàn năm truớc.

Thế kỷ 10 và 11, dân số Đại Việt ở đồng bằng sông Hồng từ 2 triệu đến 2.600.000, thì con số tù binh 50,000 chiếm tỷ lệ khá lớn. Đám tù binh này bị an trí ở nhiều nơi mà dấu tích còn ghi đến ngày nay:

Phía Tây Thăng Long, 2 làng Yên Sở, Đắc Sở thuộc tỉnh Hưng Yên, có đền Lý Phục Man, chung quanh có trồng rất nhiều dừa, một sản phẩm hiếm hoi của đất Bắc. Có thể tù binh của bộ tộc Dừa của nước Chăm đã trồng những hàng dừa trên để nhớ đến cố huơng. Tạ Chí Đại Trường dẫn Trần Quốc Vuợng, cho biết ngay tại Yên Sở tới bây giờ, vẫn thấy “dấu vết một nơi an tháp tù binh Chàm, vẫn nói tiếng với ngữ điệu khó nghe nhận”.

Trong số 50.000 tù binh có 100 mỹ nữ, vũ nữ hoàng gia Chiêm. Hưng Yên nổi tiếng với hát chèo, hát ả đào, có thể xuất phát từ các cung nữ Chàm. Nhóm tù binh nữ đã có kỹ thuật dệt vải riêng, nên có cả đền bà Chúa Dệt Lĩnh. Các ca nữ này cũng đã trao truyền lại những khúc hát Nam Ai Nam Binh vọng về quê hương hết sức bi thương.

Vương tử Trần Nhật Duật hay cưỡi voi đến thôn Da-da-li –Việt gọi trệch là thôn Bà Già- nơi tù binh Chiêm sinh sống, chơi mấy ngày mới về.

Chùa Bà Đanh
Chùa Bà Đanh, hữu ngạn sông Đáy, thuộc thôn Đanh Xá, hay Đinh Xá, thuộc huyện Kim Bảng, cũng là một làng có nguồn gốc của tù binh Chăm.

Chùa Dạm

Chùa Dạm, Bắc Ninh, nổi tiếng với cột đá cao chừng 5m, một khối hình trụ (đường kính 1m30) chồng lên một khối hộp (1m4 x 1m6) - hai bộ phận sinh dục nam nữ - là biểu hiệu cho sự trường tồn, một biệt sắc rất Chăm. 
Tháp Bảo Thiên, nóc được lợp bằng đồng, cao 12 tầng, cũng là công trình của thợ Chàm. Khi quân nhà Minh xâm chiếm Đại Việt, đã gỡ lớp đồng để đúc khí giới. Chỉ mới cách đây vài tháng, tháp Bảo Thiên là đề tài tranh dành giũa hai giáo hội Ki-Tô giáo và Phật giáo trong nước. Rất ngộ, không thấy hai giáo hội - và đồng nghiệp - nhắc nhở về dấu tích lịch sử hay hỏi ý kiến sở hữu chủ thật sự của địa điểm này, là dân tộc Việt Nam.



Ảnh của Vũ Kim Lộc - Cổ Vật Huyền Bí – NXB Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội 2006. Cây trầm hương bằng vàng, thế kỷ 4-5. Một loại Cây Đời của Champa, tìm thấy ở Nhà Bè. Một tuyệt phẩm vô song, cả về ý tưởng lẫn kỹ thuật làm nữ trang. Cây cao 95mm, chiều dài của tán 130mm, chiều rộng 87mm, nặng 363,27 gram. Lớp vàng dát dầy 0,3mm. Cây đuợc tạo theo dáng bộ phận sinh vật nữ, hướng lên trời để giao thoa với thần thánh. Tổng cộng 8 trái và 26 bông hoa, nói lên ước nguyện sinh sôi nảy nở.
Vào đến miền Trung, sự pha trộn văn hóa Chăm-Việt còn rõ ràng hơn: từ tục thờ cúng Cá Ông, đến việc thờ nữ thần Thiên Y A Na - bà mẹ vương quốc Champa - ngự ở đền Ngọc Trản, tức điện Hòn Chén, mà triều đình nhà Nguyễn sắc phong làm Thượng Đẳng Thần. Người Bắc di cư 1954, mang theo bà chúa Liễu Hạnh tá túc thờ chung ở đền này. 

Theo Phan Khoan, cống phẩm của Champa cho Đại Việt năm 1659 gồm 2 con voi đực, 20 con bò sắc vàng, 6 cặp ngà voi, 10 sừng tê giác, 50 cân sáp vàng, 50 khăn luạ trắng, 200 bó vi cá, 200 cây gỗ mun, 1 cây cột buồm, 500 nón lá. 

“Nón lá che ngang mặt chữ điền”! Cả hai, nón lá và khuôn mặt chữ điền đều là tặng phẩm Chăm. Người Việt nói “đội nón”, người Chàm nói “đuô non”. Miền Bắc, phụ nữ chít khăn mỏ quạ, ngày hội mới đội nón quai thao. Ở miền Trung, nón lá phổ thông hơn. Chốn kinh đô Huế, nón lá hoá thân thành chiếc nón bài thơ. Tà áo dài Việt in hệt tà áo cổ truyền của Chăm, chỉ khác có sẻ tà. Phụ nữ đồng bằng sông Hồng đa số có mặt tròn, hơi tèn tẹt, mắt hai mí lót hơi húp. Nguợc lại, phụ nữ miền Trung có trán cao hơi dô, mũi cao, mắt to sâu hình trái hạnh, gò má cao, quai hàm vuông, đôi nguời có tóc quăn, vì vậy có ca dao “Tóc quăn chải lược đồi mồi. Chải đứng chải ngồi tóc vẫn còn quăn”. Khác biệt giữa phụ nữ Bắc và Trung không biết có phải do máu Chàm pha trộn? Cố Tổng thống Nguyễn văn Thiệu có nhận xét “Ở miền Trung, không ai là không có máu Chàm” không phải vô lý. Cộng cư và hoà huyết luôn đi đôi, truớc khi có những “nhà nước” kẻ vạch biên giới hoặc những sử gia phải uốn bút viết sử theo nhu cầu của triều đại.

Mai Hắc Đế (722) nổi dậy chống nhà Đường, quê ở Hà Tĩnh có cha là người Chăm, mẹ Việt.

Năm 1499, vua Lê Hiến Tông xuống chiếu …“Từ nay trên từ thân vương, dưới đến trăm họ, nhất luật không ai được lấy đàn bà con gái nước Chiêm thành làm vợ cả hay vợ lẽ để cho phong tục được thuần hậu”. “Từ nay nhân dân đạo Quảng Nam không được thuận tiện cướp bóc dân Man (ám chỉ dân Chiêm), mua bán nô tì riêng. Ai trái lệnh sẽ bị tội.” - cho thấy việc hôn nhân với nguời Chàm rất phổ biến từ quan đến dân. Chiếu vua bỏ quên giới phụ nữ Việt, có lẽ họ đuợc lập gia đình với chồng Chăm? Đó là tình hình Thăng Long.

Kể từ 1588, Nguyễn Hoàng làm trấn thủ vùng Thuận Hoá và bắt đầu cuộc Nam tiến từ 1611. Những ngưòi đi theo Nguyễn Hoàng có họ hàng thuộc huyện Tống Sơn (Thanh Hoá) cùng quân lính vùng Thanh Nghệ. Di dân thuở ban đầu không thể mang theo gia đình, những cuộc hoà huyết vói dân bản địa Chàm chắc chắn đã ra khỏi luật vua.

Vì vậy, tôi linh đình phản đối câu ca dao mà tác giả vô danh phát biểu dưới nhãn quan… thái thú Tô định.

"Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo"
Ngưòi Chăm theo mẫu hệ, con gái phải dâng lễ vật đi cưới con trai. Đằng này, ông vua đa tình Chế Mân đã theo yêu cầu của thượng hoàng Trần Nhân Tôn thuận dâng hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên) để cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1306, tháng sáu, công chúa Huyền Trân sang Chiêm. Năm 1307, tháng năm, vua Chế Mân băng. Tháng sáu, vua đựợc hoả táng. Tháng mười, Trần Khắc Chung tuân lệnh vua Trần Anh Tôn sang Chiêm, lập mưu đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về Việt; vào lúc đe doạ về một cuộc hoả táng đã không còn.
Theo sách sử và phong tục Chàm, lên giàn hoả là một điều tự nguyện chỉ chánh cung mới đuợc khẩn nài nếu muốn, và phải đuợc hội đồng hoàng gia duyệt xét. Hoàng hậu Tapasi - gốc người Java – đã đuợc đưa về nước sau ngày vua Chế Mân từ trần. Công chúa Huyền Trân không phải chánh cung, nên không được lên giàn hỏa chết theo đấng quân vương.

Triều Trần cướp công chúa về là bội hôn. Cướp ngưòi nhưng không trả đất là bội ước. Điều ai oán, sau khi về tới Thăng Long, với sự cay độc của một triều đình ảnh hưởng Nho giáo, Huyền Trân đã vào chùa tu, khi mới ngoài 20 tuổi. Thế tử Đa Da mồ côi bé bỏng, không hề đuợc sử sách nhắc tới, dù chỉ một lần.

Cũng may, văn hiến nước Việt cũng vẫn còn, nên câu ca dao này không chính thức ghi trong sử Việt. Cũng không may, câu ca dao này vẫn được các văn sĩ thời nay trích dẫn tỉnh bơ – hệt như họ là hậu duệ của thái thú Tô Định hay quan toàn quyền Decoux – Các quan thái thú/toàn quyền tân thời này coi thuờng lịch sử, khinh rẻ tấm chân tình của vua Chế Mân, cũng coi rẻ cả bước chân ngàn dậm ra đi của công chúa Huyền Trân. Thử hỏi, không có miền Trung, làm gì có miền Nam? Một dải đồng bằng sông Hồng - mà vua Trần tả “bé bằng cái bàn tay, mà làm sao đặt ra lắm ban lắm bệ thế”- làm sao chống trả nổi đe doạ triền miên từ phương Bắc? Suốt một ngàn năm, người Việt Giao Chỉ không tiến xa hơn đèo Ngang để đặt chân tới đất Nhật Nam. Chỉ 600 năm sau công chúa Huyền Trân, biên giới cực Nam của nước Việt đã như ngày nay.

Tổ tiên thế nào, chúng ta nhận chịu như thế ấy. Nhưng không vì thế ngồi hưởng sự buồn đau của dân tộc Champa. Hãy vọng về cố đô Mỹ Sơn, vọng về cố đô Thăng Long, tưởng nhớ đến mối u tình của vua Chế Mân và Công Chuá Huyền Trân, tưởng niệm triệu triệu sinh linh Việt-Chăm lót máu suốt giải giang sơn, và hiểu câu thơ của Nguyễn Bính khác với lối mòn lãng mạn,
Huyền Trân Huyên Trân Huyền Trân ơi
Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi
Ngoài kia chín vạn bông tròi nở
Riêng có tình ta khép lại thôi

Không việc gì phải khép lại! Ngay cả thảm kịch cũng thiêng liêng và ích lợi nếu nhận biết nỗi đau lịch sử không của riêng ai. Trong nuớc, vừa mở hội thảo “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn: Một hội thảo lịch sử”. Chắc cũng đã đến lúc ngưòi Việt đủ tự tin và bình tâm mở nhiều hội thảo chính thức về sự đa nguồn gốc của Việt tộc, trong đó có Champa, một trong những cội nguồn của Việt tộc, cả DNA lẫn văn hoá. Chỉ sự lương thiện ấy mới có thể tạo được những rung cảm giống nhau về đất nứơc và con ngưòi, yếu tố cần thiết cho sự thống nhất và đoàn kết từ trong sâu thẳm.
Những học giả người Chàm, ngừơi Tây Phương nghiên cứu Champa đã đành, cũng không thiếu gì học giả người Việt để ngòi bút tự do vượt khỏi lũy tre xanh chật hẹp khi viết về nguồn cội Champa. Bình Nguyên Lộc là tác giả nhắc đến “Lạc Lồi” như một trong những pha trộn chủng tộc trên đất Việt. Trong nước có Ngô Văn Doanh, ở Pháp có Lê Thành Khôi, ở Úc có Nguyên Nguyên, Nguyễn Đức Hiệp. Ở Cali có Tạ Chí Đại Trưòng, Nguyễn Hy Vọng, Thu Tứ. Ở Texas có Nguyễn Cúc… Mới hôm qua, đài VNCR giới thiệu về ngày sinh nhật của IOC trên làn sóng, cộng thêm sự có mặt của giới truyền thông và đông đảo ngưòi Việt trong buổi lễ kỷ niệm hôm nay, cho thấy dù kết quả ban đầu có khiêm nhường, cũng xin các anh em Chăm ghi nhận những ân cần ấy, để trái tim đỡ bị rạn nứt; và lòng tin vào cuộc đời và giòng sinh mệnh Champa sẽ không bao giờ phai nhạt.

Salam, xin chào.

Trần Thị Vĩnh Tường, 27-12-2008, California (Bài phát biểu nhân sinh nhật hai mươi năm Văn Phòng Quốc Tế Champa)
----------------------------

“Champa”để chỉ quốc gia; “Chăm” để chỉ ngưòi. Trứơc nay, người Việt hay gọi Chàm hay Chiêm, cũng giống như ngưòi Chăm, gọi ngưòi Việt là Yuôn, đều không có ý xúc phạm nhau. Hiện nay trong nuớc sử dụng từ “Chăm” để tỏ ý tôn trọng dân tộc Chăm. Tuy nhiên, trong bài này, chúng tôi vẫn dùng, lúc thì Chàm, lúc Chăm, lúc Chiêm để không đứt đoạn với quá khứ. Thi sĩ Chế Lan Viên đã dùng chữ Hời, nhưng đã có ngưòi Việt nào yêu ngưòi Hời hơn ông?
Vietsciences- Trần thị Vĩnh Tường